Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Vấn Bồ Tát Thập Trụ Trừ Cấu đoạn Kết - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm đạo Trí - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH

TỐI THẮNG VẤN BỒ TÁT

THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

PHẨM ĐẠO TRÍ  

TẬP BA  

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nhập vào tam muội quán vô hình, thấy thân trung ấm của chúng sinh trong năm đường, có thọ hình hay không thọ hình, có tội hay phước đều biết rõ.

Khi ấy, chúng sinh tại chỗ ngồi cũng thấy hình chất của thân trung ấm trong năm đường, lại được nghe Như Lai giảng thuyết Đạo Giáo, ngay nơi ấy các trần cấu diệt hết, chứng được pháp nhãn tịnh. Hoặc có người phát tâm đại thừa, hoặc có người giảng về hạnh bí mật, tùy loại chúng sinh mà giáo hóa không bị nhiễm chấp.

Cũng lại thấy hình dáng các thân trung ấm kia từ quả vị thứ nhất đến quả vị thứ mười, thấy họ thân trung ấm chứng được nhất sinh bổ xứ, ngồi dưới gốc cây thâu phục vô số ức trăm ngàn quân ma, thân vàng ròng đầy đủ các tướng, cũng có Chư Thiên, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương đến thỉnh Bồ Tát giảng thuyết pháp âm, vang khắp tam thiên đại thiên Thế Giới.

Lại thấy ở phương khác, Chư Phật Thế Tôn khuyến hóa Bồ Tát giảng nói danh hiệu cõi nước xa gần, các hạnh thanh tịnh, hoặc trong hiện tại tán thán pháp mười hiệu của Như Lai, hoặc hưng khởi giáo pháp đến việc cúng dường, hoặc dùng thơ kệ tán thán công đức của Như Lai. Thân trung ấm của chúng sinh ở cõi nước này quán thấy đủ loại thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn.

Lại thấy Như Lai phóng hào quang từ tướng lưỡi, mỗi hào quang đều có hóa thân Phật và có tám chúng thân cận chung quanh. Đức Như Lai giảng thuyết vô úy, trí không bị thoái chuyển, các pháp thâm sâu đều được đầy đủ. Hoặc thọ ký các đệ tử Duyên Giác vào đời vị lai sẽ thành Phật với danh hiệu như vậy.

Bấy giờ, một vạn tám ngàn người và một trăm ngàn Thiên Tử ngay chỗ ngồi phát tâm Bồ Đề Vô Thượng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn xả bỏ thần túc, trở lại như cũ, rồi bảo với bốn chúng: Thần thông của Như Lai không thể cùng tận.

Lại có bốn pháp không thể nghĩ bàn.

Bốn pháp đó:

Một là chí nguyện sâu kín của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Hai là căn bản của chúng sinh không thể nghĩ bàn.

Ba là đạo tuệ của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Bốn là âm thanh của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Này Tối Thắng! Lại có bốn việc không thể nghĩ bàn.

Bốn việc đó:

Một là cung cách của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Hai là pháp tòa của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Ba là giáo giới của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Bốn là định ý kim cang không thể nghĩ bàn.

Lại có bốn việc không thể nghĩ bàn.

Bốn việc đó:

Một là ngồi bên gốc cây tâm ý như hư không, không thể nghĩ bàn.

Hai là không thấy đúng, cũng không thấy sai không thể nghĩ bàn.

Ba là lấy nhỏ làm lớn, lấy lớn làm nhỏ không thể nghĩ bàn.

Bốn là lời nói có cứu giúp, cũng không thấy có cứu giúp không thể nghĩ bàn.

Lại có bốn việc: Sự thích ứng với pháp hành không bị nhiễm chấp, nói thì có tôi ta, nhưng không thấy có sinh, cũng không thấy có diệt, không tạo tác, cũng không thường đoạn. Tất cả chúng sinh căn bản thanh tịnh.

Này Tối Thắng! Đại Bồ Tát thích ứng pháp hành không chấp trước.

Thế nào, này Tối Thắng! Thế Tôn có giới hạn không?

Thưa không, bạch Thế Tôn.

Đức Thế Tôn lại bảo Tối Thắng: Pháp trong các cõi từ pháp giới sinh ra, vốn không giới hạn.

Như vậy, vì có nên có sinh, hay là vì không nên không sinh?

Tối Thắng đáp: Bạch Thế Tôn! Không từ có mà có, cũng không từ không mà không.

Thế nào, này Tối Thắng! Các pháp không giới hạn, không từ có mà có, không từ không mà không, sao lại thành Đẳng Chánh Giác?

Tối Thắng thưa: Không có thành Đẳng Chánh Giác.

Phật bảo Tối Thắng: Như Lai ngồi bên gốc cây bằng pháp vô biên, pháp không sinh diệt đều vắng lặng, tự nhiên, không trí cũng chẳng có trí, vì nói không có trí thì làm sao hiểu biết được. Tối Thắng nên biết, pháp ta tôi là giải bày chứ không thật có, cũng không thấy đạo, đạo không thấy đạo, không thấy không nghe, không tuệ, không chấp trước, hiểu rõ pháp giới cũng lại như vậy. Không thấy sinh diệt để làm nơi chốn, có người thọ giáo mà cũng không thấy câu cú văn tự.

Như vậy, này Tối Thắng! Hiểu rõ các pháp như hư không, không hình tướng, giả sử có người ngu si nào mà đứng ở giữa hư không được không?

Bạch Thế Tôn! Không thể được.

Tất cả các pháp tánh như vậy, chân tế vốn không, không ấy là không thật có, nay nói có đạo, đại từ, đại bi, bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám hạnh Thánh Hiền, không, vô tướng, vô nguyện, sáu pháp tăng thượng, mười tám pháp bất cộng, không do các pháp này mà được thành đạo. Đạo ấy không hình, cũng không thể thấy. Vì pháp không hình mới gọi là đạo. Đạo không thấy đến, cũng không thấy đi.

Này Tối Thắng! Như vậy mới gọi là đạo. Giả sử Như Lai từ pháp giới sinh, từ pháp giới diệt thì chính là hành nghiệp cấu uế của sinh tử, nhưng không sinh diệt nên gọi là đạo.

Phật bảo Tối Thắng: Đại Bồ Tát nhập vào tam muội quán hư không ở trong các cảnh giới thực hành pháp thiền vô nhiễm, dùng pháp thiền này đến đi không ngăn ngại, không bị loạn động. Chẳng phải thân, chẳng phải tâm, không bằng chẳng phải không bằng. Tư duy về định không mà không thấy cương nhu. Tâm tánh bình thản, điều gì cũng thích ứng, ứng cũng không ứng, cũng không thấy thích ứng.

Này Tối Thắng! Định không của Bồ Tát không có hạn lượng, không thể nghĩ bàn, chẳng phải bậc La Hán, Bích Chi sánh kịp.

Này Tối Thắng! ví như thiêu đốt hết núi rừng, cây cỏ, lửa chẳng phải rừng cây, rừng cây chẳng phải lửa, cũng không phải chỉ là lửa, cũng chẳng lìa lửa.

Nên biết, các kết sử của Bồ Tát cũng như thế. Kiết sử chẳng phải là đạo, đạo chẳng là kết sử, cũng không phải lìa đạo mà hiểu rõ về định không, tam muội vô hình cũng như vậy. Các pháp thanh tịnh bình đẳng vốn không. Hoặc dùng chánh thọ quán sát kỹ các pháp đạt được, chúng bình đẳng không nhiễm ô, tâm không ở trong cũng không ở ngoài.

Sắc không chỗ trụ, cũng không thấy trụ, cứu vớt tất cả chúng sinh ở trong điên đảo. Giả nói pháp không hình tướng đó là đạo, hoặc dùng năm thông, ba đạt diệu trí để giáo hóa chúng sinh khắp bốn cõi, tự mình hóa độ, cũng không thấy có hóa độc. Đó là đạo vượt khỏi năm thông của ngoại đạo, xa lìa định ý của Thanh Văn, Duyên Giác.

Không thấy định ý của năm thông Duyên Giác là đạo. Lại dùng Định ý chánh thọ tam muội quán xét nguồn gốc của pháp, pháp từ đâu sinh ra, từ đâu diệt mất, không thấy sinh, cũng không thấy diệt mới gọi là đạo. Hữu vi là pháp thế gian, vô vi là pháp xuất thế gian.

Không thấy tục cũng không thấy đạo, nên gọi là đạo. Hữu lậu là trần cấu, vô lậu là thanh tịnh. Không thấy lậu cũng không có lậu, thực hành mười điều thiện hoặc mười điều ác, không thấy thiện cũng không có ác.

Đối với tám pháp: Được, mất, hủy báng, ngợi khen, chê bai, khổ, vui, không thấy khổ, cũng không thấy vui, không thấy thành đạo, cũng không ở tục, không thấy nói pháp vắng lặng của Hiền Thánh.

Này Tối Thắng! Đại Bồ Tát nhập vào định không mới gọi là đạo.

Lại nữa, này Tối Thắng! Đại Bồ Tát nên tư duy về tam muội hư không tạng, không thấy trải qua kiếp số thọ mạng của Hưu dư vô vi, không thấy không có sự biến đổi của Vô dư vô vi mới gọi là đạo. Đó là Đại Bồ Tát kiến lập phương tiện quyền xảo bằng tuệ không. Từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác, cúng dường và phụng sự Chư Phật Thế Tôn, giáo hóa chúng sinh, làm tịnh Cõi Phật.

Nếu người không thấy sắc tướng thì hiện ra sắc tướng, đối với thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy. Không thấy có chứng đắc Niết Bàn, không thấy lưu chuyển trong sinh tử. Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào đọc tụng, thọ trì, ghi nhớ không quên thì hiện tại sẽ được tám phước công đức.

Tám phước đó là: Quán các pháp không, tin hiểu không nghi ngờ, được tạng thâm sâu của Phật, ý không khiếp nhược, tâm ý thanh tịnh không cấu uế, không bị ô nhiễm, tâm như kim cang không thể phá hủy.

Các hành động chân chánh không vướng mắc vào cảnh giới ma, làm tịnh Cõi Phật, độ người chưa được độ. Tâm thích đại thừa, không ưa trí nhỏ. Thân cận thiện tri thức, không chấp ngoại đạo, cầu đạt chân thật quán, không có tưởng về nhân ngã.

Đó là Đại Bồ Tát được tám công đức. Hiểu biết pháp thế gian, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng. Đối với pháp vốn không mới ứng hợp với chánh thọ, thường dùng thiền định chứng đắc Niết Bàn, giáo hóa chúng sinh không thấy mệt nhọc, đó là thấy pháp ứng hợp với đạo.

Do thấy các pháp vắng lặng, không hình tướng, không tạo tác, không xứ sở.

Này Tối Thắng! Đại Bồ Tát đối với không chẳng phải không, cũng chẳng có không. Không chẳng phải không tức là vắng lặng không tên gọi.

Tên gọi ấy cũng chẳng có, chẳng không, đó gọi là đạo. Nếu khi Bồ Tát vào quán sát các pháp thì không lệ thuộc vào ba cõi, cũng không chấp vào ba hữu. Bồ Tát như vậy ở trong Cõi Trời người phát thệ nguyện lớn cứu độ chúng sinh mà không thấy có chúng sinh được độ, gọi là Đại Bồ Tát thực hành tuệ không, hoàn toàn không chấp trước.

Tối Thắng nên biết, Như Lai hoàn toàn nhập vào định ý vô hình, hàng Nhị Thừa không thể hiểu rõ, chỉ có Phật mới hiểu được. Trí tuệ của Phật không bị ngăn ngại, không chấp trước, không nhiễm ô, không có vết nhơ.

Đối với cảnh giới không có sự chấp trước. Giả sử được pháp sâu xa không lấy làm vui mừng, không vướng mắc vào tám nạn của thế gian, được bốn biện tài vô ngại, không diệt không đốt, chẳng phải không đốt, không khởi, không sinh, chẳng phải không sinh. Quá khứ hoàn toàn diệt, chẳng có quá khứ.

Hiện tại không an trụ, cũng không có an trụ. Đương lai chưa phát khởi chẳng thấy sinh. Đó là Đại Bồ Tát không chấp trước, không bị ngăn ngại, không vướng mắc vào ba xứ, không tham đắm trong ba cõi.

Bấy giờ, có chín vạn chúng sinh, mười một ức Trời người và hàng Thiên, Long, quỷ thần từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc áo bày vai hữu, quỳ gối chắp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chúng con vốn là thấp kém, được pháp tịnh mới có thể thông suốt pháp không hình tướng và pháp không biểu lộ ra bên ngoài. Xin nguyện Thế Tôn khiến thân trung ấm của Trời người đời sau được cảnh giới của Phật, ở đó chứng đắc vô vi, cùng ngày, cùng giờ, cùng một cõi nước.

Khi ấy, Đức Thế Tôn mỉm cười, trong miệng xuất ra hào quang năm màu, chiếu khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, nhiễu quanh thân ba vòng, trở lại vào miệng.

Tôn Giả A Nan quỳ gối chắp tay, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con làm thị giả Thế Tôn hơn ba mươi năm mà chưa từng thấy hào quang như vậy. Xin nguyện Thế Tôn Giảng rõ cho chúng con, để người đời sau hoàn toàn không còn cấu uế.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo A Nan: Hôm nay ông thấy chín vạn chúng sinh và mười một ức Trời người này, khi qua đời ở đây, thân trung ấm của họ lại sinh vào không giới như vi trần, thân trung ấm đã sinh, theo tuần tự thành Phật.

Có cùng một hiệu là Vô Sắc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, thuần dùng Bồ Tát làm quyến thuộc, thân trung ấm sống lâu một kiếp. Sau khi diệt độ, chánh pháp tồn tại một kiếp, tuần tự thành Phật không gián đoạn.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp này, Bồ Tát Biến Tịnh và vô số chúng sinh hối hận vì đã thọ thân người và Trời, tại chỗ ngồi khóc lóc không tự kềm chế được.

Phật biết mà vẫn hỏi: Này Thiện Nam! Vì sao lại khóc đến như vậy?

Biến Tịnh bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn sinh vào cõi ấy, nhưng không biết làm thế nào nên khóc.

Phật bảo Bồ Tát Biến Tịnh: Thôi, thôi, chớ nói như vậy.

Xưa kia ông đã phát tâm thệ nguyện với tâm niệm khác, vì sao nửa chừng muốn sinh vào cõi nước khác?

Thời hiền kiếp diệt, ông sẽ được hiệu là Biến Tịnh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười danh hiệu.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần