Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Vấn Bồ Tát Thập Trụ Trừ Cấu đoạn Kết - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH

TỐI THẮNG VẤN BỒ TÁT

THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM BẢY

PHẨM QUẢNG THỌ  

TẬP MỘT  

Khi ấy, Bồ Tát Tối Thắng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát A Tỳ Bà đế ở tron trụ địa thứ bảy nên làm thanh tịnh hạnh mình như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng: Này Tối Thắng! Bồ Tát ở trong trụ địa thứ bảy thường hành bố ví nhưng không mong cầu quả báo, lìa bỏ sự chấp trước, không thấy có ngã, tuy độ chúng sinh nhưng không thấy có độ, cũng lại không thấy ngã, nhân, thọ, mạng, đoạn diệt mười tám gốc chấp thường.

Giữ tánh các nhập lìa xa tưởng các suy nhập điên đảo, cũng không mong cầu sinh trong ba cõi, thường muốn thân cận nương tựa các Pháp Phật, niệm giới, niệm thiên, niệm thí, niệm không, vô tướng, vô nguyện, cũng lại không thấy có người nhập đạo.

Tuy biết có chứng vô tưởng không, nhưng không nhập vào cảnh giới ấy. Thanh tịnh thân, khảu, ý, vượt qua vô nguyện, thương xót tất cả loài chúng sinh, bình đẳng như nhau, xem các pháp bình đẳng vô chủ, không, cũng không có chỗ nhập.

Vì muốn làm bậc dẫn đường nên không cống cao, nhẫn chịu tất cả quả báo ứng, chỉ dạy một đường, không nương danh sắc, lại xa tà nghiệp, không nhiễm đắm trước, tướng mong cầu diệt nên không luân hồi, tự điều ý mình, tuệ không chướng ngại, thoát khỏi ba đường không nhiễm khát dục.

Bồ Tát giảng dạy đúng thời, ra vào tới lui không mất oai nghi, tất cả ý vọng tướng tham cầu mãi mãi không sinh, thẩm xét rõ ràng các sự thọ thủ, giải bày công việc không có mê lầm, cũng không có tâm so sánh hơn thua, thường nên tư duy pháp tịch nhiên, pháp tịch nhiên ấy gọi là pháp không thoái chuyển. Người như vậy được Chư Phật khen ngợi, trao cho danh hiệu tuệ vô sinh.

Vì sao?

Vì vô tâm đối với tất cả pháp, người vô tâm như vậy thì vô sinh, vô sinh chính là chỗ kiên cố không thoái chuyển. Tâm của Bồ Tát mới phát vững chãi, thường phải thủ hộ tâm thệ nguyện lớn, giống như kim cương không gì phá được.

Bồ Tát ở trong vô lượng hiểm họa sinh tử, thí tất cả sở hữu không mong cầu, bình đẳng đối xử tất cả chúng sinh, nguyện độ hết thảy chúng sinh, dùng pháp vô vi của Phật cứu độ họ, tuy độ chúng sinh nhưng không có ai được độ.

Đạt đến vô vi là hiểu rõ tất cả pháp không có sinh, phân biệt thông suốt tất cả các pháp, thường hành tinh tấn không cho sai sót, thâm nhập tuệ ấy thấu triệt tất cả, rõ hạnh Sa Môn, đủ nhất thiết trí, các sự ái nhiễm không còn tăng giảm, dứt các vọng kiến, không còn tham tiếc, được không thoái chuyển.

Tuy ở ba cõi mà không khởi tưởng chấp trước. Nếu khởi tướng chấp trước thì sinh ở biên địa. Người ở biên địa chấp ngã, ngã sở, dựa vào việc làm của mình mong cho tất cả được phước trợ giúp.

Người ví như vậy liền bị ba chướng ngại: Ngã, nhân, tưởng, thí. Bị lưu chuyển sinh tử, thế tục trói buộc, không bao giờ được đạo vượt đời. Tối Thắng nên biết. Nếu khi bố thí, Bồ Tát này không chấp ngã, ngã sở, không thấy có người thọ nhận thì không có chấp thủ.

Giả sử có bố thí thì không được mong cầu quả báo ứng. Bồ Tát bố thí trợ giúp tất cả với tâm cầu đạo vô thượng chân chánh ba đời bình đẳng không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Thấu rõ Pháp Thân không ở sinh tử, không trụ Niết Bàn.

Giáo hóa tất cả đều không có chỗ trụ, tâm tánh nhu hòa thương xót chúng sinh hiểm nạn, cứu độ tất cả chúng sinh với tâm bình đẳng, gần gũi học hỏi bậc thiện tri thức, tâm cầu Kinh Điển để dứt các nghi, luôn nhớ xả bỏ không ham gia nghiệp, thấu rõ các tướng, thông đạt vô hình, quán sát các pháp, hiểu rõ chân chánh các pháp không từ đâu sinh, giải bày một phẩm, trừ sạch các niệm, dứt các loạn tưởng, xả các tà kiến, trừ bỏ trần lao, tịch nhiên thẩm xét, tâm ý điều hòa, không gây làm hại cũng không nhiễm ô.

Nếu ai đạt đến chỗ này thì được gọi là không thoái chuyển. Với sự nhất tâm, Bồ Tát hòa nhập quần chúng, dùng thần thông thị hiện giáo hóa.

Hiểu các Cõi Phật là không, không có sở hữu, sớm đạt đến chỗ rốt ráo. Hiểu rõ đầy đủ căn tánh chúng sinh, Bồ Tát tùy theo đó mà thị hiện giáo hóa. Tối Thắng nên biết, Bồ Tát trụ địa thứ bảy tinh tấn dũng mãnh, tam muội như huyễn thường hiện trước mặt, tùy theo tâm ý của chúng sinh mà đến độ thoát họ, hoặc vào năm cõi mà cứu độ họ, không bỏ bản nguyện.

Theo thệ nguyện ấy thường được thành tựu các loại thức. Với tài hùng biện, ngôn ngữ diễn đạt, âm thanh rõ ràng, Bồ Tát nói pháp, trước phải biết rõ mạng căn và chỗ hướng đến. Muốn thành tựu đạo, ngồi nơi cội Bồ Đề thì phải đầy đủ công đức, Đạo Tràng trang nghiêm, thông các pháp Phật.

Bồ Tát thường nên tư duy sự thoái chuyển và không thoái chuyển, thành tựu các pháp quán cực vi diệu, thấu rõ biên địa ấy không có xứ sở, không có tận cùng cũng không có sinh. Bồ Tát tư duy trí nhẫn bất thoái, biết rõ các pháp tụ tán vững chãi, trí nhẫn bất thoái vĩnh viễn diệt độ.

Tuy ở chỗ phóng dật nhưng biết rõ các pháp nên trí nhẫn bất thoái không dong ruổi. Lại đối với các pháp, hiểu rõ chỗ khởi và không khởi của năm ấm. Nhẫn bất thoái là hiểu rõ các pháp không có âm vang, nghĩa là không có tiếng dội trở lại.

Bất thoái trí là ở nơi các pháp đầy đủ các sự tốt đẹp, sáu độ vô cực đầy khắp cả hư không mà không khuyết giảm. Bất thoái nhẫn là tuy các pháp không đến không đi nhưng trong các oai nghi đi đứng nằm ngồi không lúc nào là không ứng hiện. Bất thoái trí là pháp tánh thường trụ, trụ chỗ vô trụ, không có xứ sở. Bất thoái nhẫn là đối với các pháp không có tự tôn, tự ti, không cao, không thấp.

Bất thoái trí là đối với các pháp, xả ly đoạn diệt, chấp có tâm thường. Bất thoái nhẫn là do các khổ mà sinh lo sợ, nên biết tất cả đều không, không có xứ sở. Bất thoái trí là đối với các pháp, bỏ các sự che đậy, trùm khắp như hư không, xả trừ sáu việc.

Bất thoái nhẫn là đối với các pháp, tiêu trừ trần cấu, không nhớ không quên. Bất thoái trí là đối với các pháp, không chỗ nào không ứng hiện, cũng không hợp không tan, tuy ở nơi các pháp nhưng đoạn trừ trần lao không còn dư sót.

Bất thoái nhẫn là nhờ theo tuệ ấy, hành mà không hành, không biết gì cả nhưng không có gì mà không biết, không nghĩ, không thấy. Bất thoái trí là các pháp không động, không ai có thể làm cho dao động, tịch nhiên rỗng lặng, không có niệm tưởng Bất thoái nhẫn là các pháp hoại diệt không có thoái chuyển, đều đã diệt sạch không thể sinh lại.

Bất thoái trí là đối với tất cả pháp, không trụ trước sau, tự tánh như hư không. Bất thoái nhẫn là tất cả các pháp đều ở chỗ tu hành ẩn tịch mặc, không chướng ngại cũng không hoạn nạn. Bất thoái trí là trụ tánh pháp giới, thường tùy theo thời hiển bày các pháp.

Bất thoái nhẫn là tất cả các pháp đềuo tịch không niệm, không xả, không đắm, không nhiễm. Bất thoái trí là nương theo các pháp vượt qua bờ giác, không thấy đây kia, có độ hay không độ. Bất thoái nhẫn là không niệm các nhập ưu, não, sinh, già, bệnh, chết của các pháp. Bất thoái nhẫn là thâu giữ các pháp mà không thủ đắc, được pháp lục độ, ý chí thâm diệu.

Bất thoái nhẫn là lìa các cấu bẩn chấp vào các pháp, sạch sẽ không nhơ. Bất thoái nhẫn là đối với tất cả pháp tu hành bình đẳng, cũng không thoái chuyển. Bất thoái nhẫn là không thấy sự tạo tác về chủng tánh các pháp, biết rõ là một.

Bất thoái trí là đối với tất cả các pháp, không có mong cầu cũng không buồn lo. Bất thoái nhẫn là do các pháp cùng nhau phát khởi, tuy không dừng nghỉ giữa đường, nhưng biến nhác nên đọa vào nơi biên địa.

Bất thoái trí là hiểu rõ bản vô, không tiến không thoái. Bất thoái nhẫn là đoạn trừ chỗ vang vọng của các pháp, thảy đều như hư không, không có tướng mạo, không xả bản vô, pháp tánh vốn tự như vậy. Bất thoái trí là đối với tất cả pháp, không có chướng ngại, không đến không đi, không buộc, không thoát cũng không có sinh. Bất thoái nhẫn là trừ các ác nhơ bẩn, hạnh được thanh tịnh.

Bất thoái trí là giảng bày các pháp, tâm định trí phát, hàng phục ác ma, cởi bỏ trói buộc, tâm đạo hưng thịnh. Bất thoái nhẫn là độ sạch hết thảy nhan duyên ân ái và kẻ khinh mạn các pháp. Bất thoái trí là lìa danh ác của tất cả pháp, danh bản vô úy, không được cũng không mất. Bất thoái nhẫn là khiến tất cả pháp không buông không giữ, không chết cũng không sinh.

Bất thoái trí bỏ tâm tham đắm, rốt ráo trọn vẹn không có tăng giảm. Bất thoái trí là làm pháp căn bản, sinh ra trong ba cõi một mình thù thắng. Bất thoái nhẫn là tư duy gốc khổ, truy tầm biết rõ nó từ đâu sinh. Bất thoái trí là phân biệt nhân duyên ý thức của căn môn. Bất thoái nhẫn là Bồ Tát trọn không làm trái với thệ nguyện của mình.

Bất thoái trí là thường sẽ hóa sinh, không vì thân này mà thọ thai phần. Bất thoái nhẫn là tư duy các loại hưng suy của ấm nhập. Bất thoái trí là biết rõ trong thân, khởi quán bất tịnh từ đầu đến chân không có gì đáng tham đắm.

Này Tối Thắng! Bồ Tát thường nên tư duy phân biệt biết rõ, người mới khởi học tâm bồ Tát phải dùng bất thoái nhẫn để quán sát thất bản, không có sinh diệt, nắm giữ, đoạn trừ. Lại nên tư duy bát bản của Hiền Thánh thảy đều không thấy có sinh diệt, thủ xả.

Này Tối Thắng! Giả sử tùy theo tâm lượng mà thọ sinh, hoặc sinh Cõi Sắc, năm địa, mười địa, sáu địa, bốn địa, ba địa, hai địa, một địa, người ở ngôi vị thấp nhất cũng nên tư duy đầy đủ thất bản. Trong Cõi Vô Sắc lại có mười một, người biết rõ không tịch, không thoái chuyển có thể thành tựu khổ nhẫn, khổ trí, tập, tận, đạo nhẫn và trí Hiền Thánh, cũng sẽ biết rõ tám huyền thông nhẫn, trừ năm mươi hai lậu vô minh.

Bồ Tát trụ địa thứ bảy thường nương vào Sơ Thiền, hành sáu thánh trí, tu tam muội, và ba duyên phạm đường nơi hỷ căn.

Nếu dựa vào trung thiền mà không thủ chứng thì nên tu bảy trí không giác có quán, tâm hành thủ hộ không, vô tướng, vô nguyện. Giả sử Bồ Tát niệm tam y hiền, biết rõ mười tuệ, không niệm giác quán không, vô tướng, vô nguyện, an lạc tự vui.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần