Phật Thuyết Kinh Tối Thượng Bí Mật Na Nõa Thiên - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Hiền, Đời Tống
PHẬT THUYẾT KINH
TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NÕA THIÊN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Pháp Hiền, Đời Tống
PHẦN MỘT
Ta nghe như vậy!
một thời Đức Phật ngự tại cung Tỳ Sa Môn cùng với chúng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đến dự trong đó Đại Bí Mật Chủ Kim Cang Thủ Bồ Tát là bậc thượng thủ đứng đầu.
Vô số Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca lầu la, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già và Thích Phạm Hộ Thế, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Bảo Hiền Thiên, Mãn Hiền Thiên, Lực Thiên, Đại Lực Thiên, Nan Nễ Kế Thuyết La Thiên, Ma Hạ Ca La Thiên, Y Chủ Thiên và các Thiên Hậu v.v... đều có vô lượng trăm ngàn quyến thuộc đến dự.
Lại có chúng Đại La Sát, đó là Kim Sắc La Sát Chủ, Thập Đầu La Sát Chủ, Vĩ Tỳ Sa Noa La Sát Chủ, Bảo Mật La Sát Chủ, Hành Mật La Sát Chủ, Vô Biên Mật La Sát Chủ, Phổ Biến Mật La Sát Chủ, Thượng Thọ La Sát Chủ, Ác Nha La Sát Chủ, Lợi Nha La Sát Chủ, Ô Xá Bá Nại La Sát Chủ, Tượng Đầu La Sát Chủ, như vậy các La Sát Chủ đều thống lãnh trăm ngàn cu chi quyến thuộc đi đến tập hội.
Lại có chúng Đại Dạ Xoa như là Nhân Tiên Dạ Xoa Chủ, A Tra Phạ Dược Xoa Chủ, Thiện Điều Dạ Xoa Chủ, Phát Quang Dạ Xoa Chủ, Thiện Dung Dạ Xoa Chủ, Diệu Quang Dạ Xoa Chủ, Diệu Mục Dạ Xoa Chủ, Vĩ Sắc Nổ Dạ Xoa Chủ, Diệu Phát Dạ Xoa Chủ.
Ác Tướng Dạ Xoa Chủ, Đắc Thắng Dạ Xoa Chủ, Xí Thạnh Dạ Xoa Chủ, Hỏa Đảnh Dạ Xoa Chủ, Danh Xưng Dạ Xoa Chủ, Bán Tức Ca Dạ Xoa Chủ, Hoa Thọ Dạ Xoa Chủ, Hoa Kế Dạ Xoa Chủ, Bảo Kế Dạ Xoa Chủ, Quảng Tài Dạ Xoa Chủ, Thiện Giác Dạ Xoa Chủ.
Thiện Hạnh Dạ Xoa Chủ, Diệu Tý Dạ Xoa Chủ, Diệu Nghiêm Dạ Xoa Chủ, Châu Nha Dạ Xoa Chủ, Tô Lị Dã Dạ Xoa Chủ, Nhật Quang Dạ Xoa Chủ, Nhật Hỷ Dạ Xoa Chủ, Lộ Xỉ Dạ Xoa Chủ, Xí Thạnh Quang Dạ Xoa Chủ, Úy Diện Dạ Xoa Chủ, Phổ Chiếu Dạ Xoa Chủ, như vậy các Dạ Xoa Chủ có đủ đại oai lực bay trong hư không tự tại đều thống lãnh vô số trăm ngàn cu chi quyến thuộc đi đến tập hội.
Lại có chúng Trì Minh Thiên cho đến các chúng Đại Tiên đều đến tập hội.
Đại Tỳ Sa Môn Thiên Vương Mahā vaiśravaṇa deva rāja cùng trăm ngàn cu chi quyến thuộc vây quanh Đức Thế Tôn. Khi ấy có vị Trời tên là Na Nõa Naḍa, sắc tướng thù diệu, mặt mày hớn hở tươi cười. Tay cầm Nhật, Nguyệt với các khí trượng, dùng các báu trang nghiêm sáng như Nhật Nguyệt, dùng hai Rồng Nan Đà Nan Da, Ô Bà Nan Đà Upananda quấn nơi nách, Đức Xoa Ra Tākṣa làm dây cột eo, có oai lực lớn như Na La Diên Nārāyaṇa cũng đều đi đến tập hội, ngồi trước mặt Đức Phật.
Khi ấy, Tỳ Sa Môn Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, dùng các hoa báu và hoa Bát Nạp Ma Sen Hồng, hoa Cu Mẫu Nại, hoa Bôn Nõa Lợi Ca, hoa Ưu Bát La, hoa Tao Hiến Đề Ca, hoa Phạ Lị Thỉ Ca, hoa Chiêm Bặc Ca, hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La, dùng các loại hoa trên bờ dưới nước như vậy đều đem cúng dường Đức Phật.
Nhiễu quanh ngàn vòng lễ bàn chân của Đức Phật xong rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con thấy trong Hội này: Chúng Đại Dạ Xoa, chúng Đại La Sát hiện các thứ tướng ăn thịt người.
Lại thấy chúng Đại Bồ Tát, chúng Đại Trì Minh Thiên với chúng Đại Tiên cho đến Trời, Rồng, Dạ Xoa, La Sát, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… các chúng như vậy đều đi đến tập hội vây quanh Đức Thế Tôn. Đây là điềm rất tốt Đại tường mà con chưa từng thấy.
Thế Tôn nay muốn nói pháp nào?
Là nói pháp Bí Mật Mạn Noa La?
Là nói pháp tam muội?
Bạch Thế Tôn! Nay đúng là phải lúc! Nguyện rộng tuyên nói.
Lúc đó, Đức Thế Tôn nhận lời cầu thỉnh của Tỳ Sa Môn xong, liền bảo rằng: Này Thiên Vương! Ta thấy tất cả chúng sanh của thế gian, ở trong ngày đêm có sự sợ hãi lớn, bởi vì vô lượng Dạ Xoa, La Sát đại ác rình rập mong được dịp thuận tiện để gây bức hại.
Này Thiên Vương! Dạ Xoa La Sát đại ác của nhóm ấy, ngày nay quy y ở trong giáo của ta, thọ ba quy y với thọ giới pháp, nên đối với các hữu tình không dám xâm hại nữa.
Khi ấy Đức Thế Tôn an ủi Tỳ Sa Môn Thiên Vương như vậy xong, liền nhập vào Tam Ma Địa Điều Phục Dạ Xoa Xí Thạnh Phổ Quang, ở trong định ấy phóng ánh sáng lớn.
Ánh sáng ấy chiếu khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới, hết thảy tất cả Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả, Bộ đa đại ác với các Rồng ác cho đến nhóm Tú Diệu sao … được ánh sáng của Đức Phật chiếu đến, thảy đều cảnh giác. Ánh sáng ấy quay lại nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi nhập vào đảnh đầu Đức Phật. Sau đó từ nơi mặt phóng ra ánh sáng bảy màu nhập vào đảnh đầu của Na Nõa Thiên.
Khi Na Nõa Thiên được ánh sáng nhập vào đảnh đầu xong, liền hiện thân lớn như núi Tu Di Sumeru, mặt mày hung dữ, há miệng cười lớn, có một ngàn cánh tay. Tay cầm Cát Ba La với các khí trượng, dùng da cọp làm quần, dùng Cát Ba La trang nghiêm toả hào quang rực rỡ, có oai lực lớn. Lúc Na Nõa Thiên hiện thân này thì đại địa chấn động, người nhìn thấy đều sợ hãi.
Thời Na Nõa Thiên chắp tay hướng về Đức Phật, rồi bạch rằng: Thế Tôn! Con có Tâm Minh, khéo hay điều phục chúng A Tu La với tất cả hàng Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa Tỳ Xá Tả… cho đến Đại Phạm Thiên Vương, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên thảy điều quy phục, cũng hay câu triệu hết thảy chúng Trời, Rồng.
Thế Tôn! Tâm Minh này của con là pháp thành tựu tối thượng của tất cả bậc Trì Minh Vidya dhara, cho nên trong Hội này con đối trước Đức Như Lai tuyên nói rộng lớn, vì các bậc Trì Minh khiến cho được thành tựu, mau đầy đủ hết thảy mọi mong cầu trong tâm chúng sanh.
Thế Tôn! Lại nữa, Tâm Minh này ở hết thảy nơi niệm tụng đều được thành tựu, cho đến được vào tất cả Mạn Noa La với các Tam Muội. Hết thảy Như Lai Bộ Tathāgata kulāya, Kim Cang Bộ Vajra kulāya, Bảo Bộ Ratna kulāya, Liên Hoa Bộ Padma kulāya, Yết Ma Bộ Karma kulāya … hết thảy Mạn Noa La ở các Bộ này, tụng Tâm Minh của con đều được thành tựu với được vào hết thảy Mạn Noa La Ấn Pháp, cho đến được Đại Tổng trì.
Thế Tôn! Đối với tam muội bình đẳng, Mạn Noa La Pháp, Minh Ngôn, Ấn Tướng của các Bộ này. Nguyện xin Đức Thế Tôn xót thương nhiếp nhận, hứa cho con được tuyên nói.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Na Nõa Thiên rằng: Hết thảy tam muội bình đẳng, Mạn Noa La Pháp, Minh Ngôn, Ấn Tướng của các Bộ. Ta cũng tùy hỷ. Ông, Na Nõa Thiên vì hết thảy người Trì Minh, hãy tuyên nói.
Thời Na Nõa Thiên nương theo Thánh Chỉ của Đức Phật, vì lợi ích cho nên nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi đứng trước mặt Đức Phật, nói Tâm Đại Minh là:
1. A tha đô nhập phạ lị đa hốt đa phạ hô tất.
2. Đát bát đa, cát na cát mạt ni thất ra.
3. Ế hê duệ hê, cô tất đa, a tra tra ha sa.
4. Mạt ni bát ra lãng phạ ha, sa phiêu đà hạ ra ra tức đương.
5. Hiệt lật đa la tán nại na nghiệt lỗ đốt lỗ sắt ca.
6. Tát cật rị đa, tán na ái thiết ly lam.
7. Ma hạ di rô mạn nại ra đà ra.
8. Phạ ra nghiêm tì ra, tô ra nghiệt nõa, nhĩ tô nại nang.
9. Đà ra, đà ra, đà ra ni đà ra.
10. Nghiêm tì ra đề ra, tì ra tì ra.
11. Mạt tì ra mạt tì ra.
12. A tô ra nghiệt nõa nhị tô nại noan.
13. Mạt lị nại, nang đát lị nhạ nang.
14. Vĩ tát phổ lăng nghiệt a nhị đa cát la noa.
15. Bát ra bà nậu ra tức đa mạn noa la.
16. Cát bá ra phạ phạ đường.
17. Nhạ tra, tra hạ sá cô lãng.
18. Nễ lị mạt lãng tam tam bột ra mang.
19. Sa nghiệt ra tô mê lỗ bát lị phạ đa.
20. Đa trí đa lãm nghiệt.
21. Tát lệ ra thất a ra.
22. Đà đổ sái ra bá nại na cát lam.
23. Tán tổ lan nõa, na cát lãm.
24. A mộ già noa nại xá nhĩ đa mạn noa la.
25. Thiết thất cát ra nõa mao lệ đà la.
26. A tả ra vĩ mạt la.
27. Tát cát ra nhu tát na nại khất rị đa.
28. A phạ bà sa cô lãng.
29. Bát ra mạt tha Nang.
30. A tô ra bà phạ ra cô ra na thiết nang.
31. Một ra hiệt dân nại ra rô nại ra na mạt tắc ngật rị đương.
32. Mạn nỉ đương bố nhĩ đương a lị tức đương.
33. Tát lị phạ vĩ nễ dã đà ra na mạc tắc khất rị đương.
34. Cật Sa Diêu sa địa.
35. Tất đà hiến đà lị phạ bố nhĩ đương.
36. Ma hạ mê rô tì nõa ra đà lãm.
37. Phạ ra dã ngu bát vi đa đà lãm.
38. Bộ nhương nghiệt đa xoa cát.
39. Phạ tô cát sa nghiệt ra.
40. Nan nô bát nan nại mạn đà cát bá ra.
41. Mê kha ra lãng ngật rị đa cát trí.
42. Tát nại dụ đề lị đa cát bá. Ra lãng ngật rị đa thiết ly lãng.
43. Thất phạ bát ra tạt lệ đa mao lệ đà lãm.
44. Phạ dụ bát phạ na vi nghiệt nhạ phạ lị cang.
45. Tạt đổ lãm nghiệt tác cát ra tạt ra noản.
46. Kha nghiệt tạt ra noản.
47. A bát ra mê dã phạ ra, phạ nhật ra mẫu tát ra.
48. Tần ni yết nại nga đố mạt ra, tác khất ra.
49. A tất mẫu sa ra đát lị, thú ra.
50. Mẫu nại nga ra bát ra hạ ra noản.
51. Na nõa cô bát lãm.
52. Phạ ra cô bát lãm.
53. Tô vi thương tô, nễ đát lãm.
54. Tô phạ cát đát lãm.
55. Tô ngu hê dã cang.
56. Tất đà tế na bát đinh.
57. Na nõa cô bát lãm.
58. Ma phạ lật đát duệ thiết dã mật.
59. Đát nĩnh tha: Úm ế hê duệ hê bà nga vam.
60. Na nõa cô bát ra.
61. Hiệt sa hiệt sa.
62. Mạt sa mạt sa.
63. Cô rô cô rô.
64. Đốt rô đốt rô.
65. Tổ rô tổ rô.
66. Vĩ lị vĩ lị.
67. Tức trí tức trí.
68. Vĩ tức trí vĩ tức trí.
69. Phạ nhật lãng, phạ nhật ra phạ, phạ nhật lãng.
70. Hồng hồng hồng.
71. Hổ đa hiệt na hiệt na.
72. Vĩ đặc võng tát dã, vĩ đặc võng tát dã.
73. Vĩ nại ra, bát dã,vĩ nại ra bát dã.
74. Ốt tha nại dã, ốt tha nại dã.
75. Cô bát ra cô bát ra.
76. Na nõa cô bár ra.
77. Phạ ra cô bát ra.
78. Cô bát ra cô bát ra.
79. Ngu hê dã, cô bát ra.
80. Thâu bà cô bát ra.
81. Dược xoa cô bát ra.
82. Ngu hê dã cô bát ra.
83. Mạt lị nại, mạt lị nại.
84. Nghịệt lị nhạ nghiệt lị nhạ.
85. Na lị tả na lị tả.
86. Hiệt lị, a na dã hiệt na.
87. Hiệt lị hiệt lị lộ tả na.
88. Ra khất đa lộ tả na.
89. Nễ ra lộ tả na.
90. Tất đa lộ tả na, ra khất đa, lộ tả na.
91. Khất lị sắc nõa, lộ tả na.
92. Vĩ khất rị đa lộ tả na.
93. Nễ phạ dã lộ tả na.
94. Tô phạ lan nõa lộ tả na.
95. Tất địa lộ tả na.
96. Mê già cồ số nỗ bà phạ mẫu nỗ bà phạ.
97. Ha ra hiệt ra thiết một nại cát ra bát dã.
98. Hê hê na nõa cô bát ra.
99. Hệ hệ na nõa cô bát ra cô bát ra.
100. Tát ra cô bát ra.
101. A vĩ xả a vĩ xả cô bát ra cô bát ra.
102. Phạ ra cô bát ra.
103. Tạt ra tạt ra.
104. Mao lệ đà ra.
105. Tả ra dã tả ra dã, phạ nhật lãng.
106. La ngỗ la ngỗ khiết nại ngang.
107. Cu rô cu rô.
108. A tra tra hạ sa cu lãng.
109. Tam cu ra cu lãng.
110. Cát ra cát ra.
111. Cát lệ sĩ cát lệ.
112. Cu lộ cu lộ.
113. Môn tả môn tả.
114. Thiết một nại cu lãng.
115. Na nõa mẫu nại nga ra.
116. Na nõa cô bát ra.
117. Phạ ra phạ ra, phạ nhật ra đà ra.
118. Bát nại ma đà ra.
119. Mẫu sa ra đà ra.
120. Tát khất ra đà ra.
121. Lãng ngu ra đà ra.
122. Bát ra thú đà ra.
123. Bá thiết đà ra.
124. A dụ mẫu sa ra, bát ra hạ ra nõa đà ra.
125. Đà ra ni đà ra.
126. Tán nại ra, tô lị dã, ma ra đà ra.
127. Nặc xoa đát ra, đa ra nga ra hiệt mạn nõa ra đà ra.
128. Nõa nại xả nỉ đa nhập phạ ra, đế nhạ cát ra.
129. Bát ra đà nậu ra tức đa, mạn nõa la.
130. Sa nghiệt ra tát ra vĩ thâu sát nõa cát ra.
131. Mạt thả mạt cát ra thất thú ma ra.
132. Ngật rị đa bá thiết đà ra.
133. A tô ra nghiệt nõA Nang.
134. Mạt lị nại, na cát ra.
135. Cung bạn nõa dược xoa, ra xoa sa.
136. Hột rị nại dụ na mạt nại na cát lam.
137. Tát đát vam, bà nga vam, na nõa cô bát ra cô bát ra.
138. Na lị tả, na lị tả.
139. Hiệt lị, hiệt lị.
140. Hiệt lị lộ tả na.
141. Phạ ra, lộ tả na.
142. Lộ tả na.
143. Vĩ cật rị đa lộ tả na.
144. Tô phạ lan nõa, lộ tả na.
145. Tất đà lộ tả na.
146. A vĩ xả a vĩ xả.
147. Thi già lam, tất điện đổ mãn đát ra bát nại, sa phạ ha.
Athāto jvalita huta vaho pīṭhāṃ pāda kanaka maṇi śilā.
Ehyehi kupita aṭṭa hāsa maṇi pralamba hāra. Ardha hāra racitaṃ, haritāla candana agaru turuṣka sat kṛta saṃ naddha śarīraṃ, mahā meru mandaradhara, bala gambhīra asura gaṇa nisūdana, dhara dhara dharaṇi dhara gambhīra dhīra, vīra vīra, ma vīra mavīra, asura gaṇa nisūdana mardana tarjana.
Visphuliṅga āditya kiraṇā prabhānu racita maṇḍala. Kāpala vara daṃjaṭa aṭṭa hāsa ghora, nir malaṃ saṃ bhramaṃ sāgara sumeru parvata taṭi taraṅga salila, śikhara dhātu śaila padana karaṃ, sam cūrṇana karaṃ, amogha dva daśa āditya maṇḍala śaśi kiraṇa mauli dhara, acala vimala sakala jyotsnāḍhya kṛta avabhāsa ghoraṃ pramathana, asura bhavana kula nāśana.
Brahma indra rudra namaskṛtaṃ vanditaṃ pūjitaṃ arcitaṃ.
Sarva vidyādhara namaskṛtaṃ, ṛṣi oṣadhi siddhaṃ, sarva gandharva pūjitaṃ, mahāmeru mandara dharaṃ, vara yugaṃ parvata dharaṃ, bhuja ga taṣaka vāśuki sāgarA Nandopanando bandha kāpala, mekhalā alaṃ kṛta kaṭi, saddyu dṛti kāpalālaṃ kṛta śarīraṃ, śiva prajvalita mauli dharaṃ, vāyu pavana vega javārkaṃ, catur aṅga cakra caraṇāṃ, khaga caraṇaṃ, aprameya vara vajramusala bhinni, khaḍga tomara cakra asi musala trisūla mudgara pra haraṇaṃ.
Naḍa kūbaraṃ, vara kūbaraṃ suve1saṃ sunetraṃ suvaktraṃ suguhyakaṃ, siddha sanā patin naḍa kūbaraṃ mā varta iṣyāmi.
Tadyathā: Oṃ ehyehi bhagavān naḍa kūbara, hasa hasa, maṣa maṣa, kuru kuru, turu turu, curu curu, viri viri, ceṭi ceṭi, viceṭi viceṭi, vajraṃ vajra vajraṃ, huṃ huṃ huṃ, hūta hana hana, vidhvaṃsaya vidhvaṃsaya, vidrāpaya vidrāpaya, ucchedaya ucchedaya, kūbara kūbara naḍa kūbara vara kūbara, kūbara kūbara, śubha kūbara, yakṣa kūbara, guhya kūbara, marda marda, garja garja, nādita nādita, hari ānaya hana, hari hari, hari locana, rakta locana, nīla locana, sitalocana, kṛṣṇa locana, vikṛta locana, divya locana, suvarṇa locana, siddha locana, megha ghoṣodbhavam udbhava, hala hara śabda karāpaya.
He he naḍa kūbara, para kūbara, sāra kūbara, āveśa āveśa, kūbara kūbara vara kūbara, jvala jvala mauli dhara, cālaya cālaya, vajraṃ, rāja rāja khaḍgaṃ, kuru kuru aṭṭa hāsa ghoraṃ, saṃ kula ghoraṃ, kara kara, kiri kiri, kuru kuru, muñca muñca, śabda ghoraṃ, naḍa mudgara naḍa kūbara, vara vara vajradhara, padma dhara, musala dhara, cakra dhara, lāṅgala dhara, dharaṇi dhara, candra sūrya māla dhara, nakṣatra tarā graha mandara dhara, dva daśa ādityajvāla tejas kara prabhānu racita maṇḍala, sāgara sara viśoṣaṇa kara, majja makara śiśu māra kṛta pāśa dhara, asura gaṇānāṃ mardana kara, kumbhāṇḍa yakṣa hṛdayaṃ mardana karaṃ, tvaṃ bhagavan naḍa kūbara nādita nādita, hari hari, hari locana, rakta locana, nīla locana, vara locana, vikṛta locana, syvarṇalocana, siddha locana, āveśa āveśa śīghraṃ siddhyantu mantra padā svāhā.
Bấy giờ, Na Nõa Thiên nói Minh này xong, lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tâm Minh này của con, nếu có Hành Nhân y theo Pháp trì tụng được thuần thục xong, thảy hay thành tựu việc của ngàn loại.
Nếu có Hành Nhân muốn ngưng sấm sét, nên dùng đao kiếm hoặc cành Thạch Lựu, hoặc cành Yết La Vĩ La, hoặc tro, hoặc nước… đem vật của nhóm như vậy, dùng Minh này gia trì một biến ắt có thể dùng, liền chận đứng được sấm sét.
Lại có pháp: Nếu có Hành Nhân bị các Dạ Xoa, La Sát ác chấp trì bị dịch. Nếu muốn khiển trừ, nên dùng An Tất Hương, dùng Minh này gia trì một biến, sau đó thiêu đốt, xông ướp người bị nắm giữ kia. Nghe mùi hương này xong thì kẻ ấy liền nói rõ lý do rồi được khỏi bệnh.
Lại có pháp: Nếu Hành Nhân muốn câu triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, La Sát, Bộ Đa, Tỳ Xá Tả v.v... Nên dùng An Tất Hương, tụng Minh này gia trì một biến rồi thiêu đốt để câu triệu, ắt liền đi đến.
Nếu muốn Phát Khiển, cũng dùng An Tất Hương, tụng Minh này gia trì một biến, như trước thiêu đốt rồi Phát Khiển, ắt đuổi đi ngay.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho cái bát nói chuyện và cử động, nên lấy cái bát đựng đầy tro gạch đã thiêu đốt để trong Mạn Noã La, tụng Minh này gia trì vào An Tất Hương rồi thiêu đốt, lại tụng Minh này một biến thì cái bát ấy liền nói ra tiếng người, vì Hành Nhân mà nói các việc với hay cử động.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho cái bình Ứ Già nói chuyện và cử động, nên chọn lấy cái bình Ứ Già thuần màu trắng, tinh khiết, tốt mới. Dùng nhóm hương Bạch Đàn và Cung Câu Ma làm thành Đồ Hương hương xoa bôi để xoa bôi, đựng đầy nước sạch với cắm các vật có mùi thơm, tụng Tâm Minh gia trì một biến rồi an trong Mạn Noã La, thiêu đốt An Tất Hương, tụng Tâm minh một biến thì cái bình ấy đồng với việc đã nói lúc trước.
Lại tụng Tâm minh gia trì Bạch Giới Tử hạt cải trắng ném vào cái bình thời cái bình ấy liền bay lên rời khỏi mặt đất tám ngón tay, tùy ý lại quay trở về vào trong Mạn Noã La.
Lại có pháp: Nếu muốn Tát Đam Bà Stambhaḥ: Cây cột cử động. Trước tiên dùng nhóm hương Bạch Đàn và Cung Câu Ma làm đồ hương mà xoa bôi, sau đó đốt An Tức Hương, búng ngón tay tụng Tâm Minh gia trì thì Tát Đam Bà ấy tự nhiên cử động sau đó trở về chỗ cũ.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho bàng sanh nói năng, nên đốt An Tất Hương xông ướp tro với Bạch Giới Tử, tụng Tâm Minh gia trì hai mốt biến xong, sau đó lại tụng Tâm Minh, đem tro với Giới Tử ném lên thân loài súc sanh thì nó liền nói các việc.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho Đồng Nữ nói các việc, nên dùng cù ma di phân bò chưa rớt xuống đất xoa tô Mạn Noã La vuông vức bốn phương. Lại chọn một Đồng Nữ tướng mạo đoan trang, thân thể đầy đủ, khiến tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới trắng sạch, ngồi trong Mạn Noã La, dùng các thứ hoa cúng dường, đốt An Tất Hương, thời Đồng Nữ ấy liền nói các việc quá khứ, hiện tại, vị lai.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho Đồng Nam nói chuyện, nên dùng Bạch Giới Tử cùng với tro Tức Đế trộn chung lại, tụng Tâm Minh gia trì một biến, đốt An Tất Hương xông ướp xong, đem rải trên đảnh đầu của ĐồngTử thời Đồng Tử ấy liền nói các việc.
Lại có pháp: Nếu muốn ngăn cấm lửa chẳng cho nóng, nên dùng củi gỗ, tụng Tâm Minh gia trì một biến, đốt An Tất Hương xông cướp xong, rồi ném vào trong lửa thì lửa liền lạnh như tuyết.
Lại có pháp: Nếu muốn ngăn cấm các Tà Chú, nên dùng dây lụa trắng sạc,. Tụng Tâm Minh gia trì một biến, đốt An Tất Hương xông ướp xong, rồi cột buộc ở cánh tay trái của Hành Nhân thời tất cả Tà Chú đều bị chế phục.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho Một Nạp Nga Ra Mudgara: Cây búa làm pháp thành tựu, nên dùng cù ma di phân bò chưa rớt xuống đất xoa tô Mạn Nõa La, đem Một Nạp Nga Ra an trong Mạn Noã La, lấy các thứ hoa cúng dường.
Đốt An Tất Hương xông ướp, tụng Tâm Minh gia trì một biến thì Một Nạp Nga Ra hay làm các việc thành tựu, lại hay khiến tùy ý cử động. Một Nạp Nga Ra này đi vào trong trận chiến thì tự nhiên được thắng. Cho đến cây rừng núi đá cũng hay tồi hoại được. Phàm mọi việc do Hành Nhân đó đã làm thảy đều thành tựu.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho cây cung làm pháp thành tựu, nên dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì một biến rồi thiêu đốt xông ướp, liền hay tùy ý làm các việc thành tựu.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho Tam Xoa làm việc thành tựu, như trước làm Mạn Noã La, sau đó tụng Tâm Minh một biến gia trì An Tất Hương xông ướp Tam Xoa, rồi để Tam Xoa trong Mạn Noã La, lại tụng Tâm Minh một biến thời Tam Xoa phóng ánh sáng rực rỡ, cử động rời khỏi mặt đất bay đi bốn phương, sau đó lại trở về vào bên trong Mạn Noã La làm Pháp thành tựu tuỳ theo ý người tu hành.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho cây kiếm làm pháp thành tựu, cũng dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì một biến, rồi thiêu đốt xông ướp, cũng hay làm tất cả việc thành tựu.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho Khiết Thung Nga khaḍga: Cây đao làm Pháp thành tựu, nên dùng tro Tức Đế, tụng tâm minh gia trì một biến, bôi nơi Khiết Thung nga, cũng hay làm tất cả việc thành tựu.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho Cát Ba La Kapāla: Cái bát làm pháp thành tựu. Trước tiên y theo Pháp Xoa Tô Mạn Noã La xong, liền y theo pháp chọn lấy Cát Ba La sạch sẽ, dùng Bạch Đàn Hương xoa bôi rồi để trong Mạn Noã La, đốt An Tất Hương, tụng tâm minh gia trì một biến tức chỗ làm thành tựu, hay khiến cho cử động, lại hay nói việc ba đời.
Lại có pháp: Nên dùng cây kiếm bén, tụng tâm minh gia trì một biến, đốt An Tất Hương xông ướp, sau đó Hành Nhân lớn tiếng tụng chữ Hồng gia trì cây kiếm ấy thời cây kiếm liền phóng ánh sáng bay lên trong hư không rồi quay về chỗ cũ. Nếu vào trong trận thì quân địch sẽ thối lui bỏ chạy.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho hình tượng trong các miếu thờ Trời Thiên Từ cử động. Ở trước tượng ấy, đốt An Tất Hương, tụng Tâm Minh một biến thời tượng Trời ấy tùy ý nghiêng động.
Lại có pháp: Nếu tùy theo nơi chốn của địa phương mà Hành Nhân nghi có phục tàng kho tàng bị chôn dấu và muốn lấy. Liền ở đất đó làm Mạn Noã La, đốt An Tất Hương, tụng Tâm Minh một biến thời phục tàng hiện ra.
Lại có pháp: Hoặc dùng Bạch Giới Tử, tụng Tâm Minh gia trì một biến. Đem Giới Tử hạt cải này tùy theo nơi chốn mà ném, hoặc trong tụ lạc, hoặc trong nhà trống, hoặc trước tượng ở miếu thờ Trời, hoặc ở tháp miếu, cho đến sườn núi, ao Rồng …tùy theo chỗ đã ném, đốt An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì một biến thời nơi có phục tàng ấy thảy đều hiện ra.
Lại có pháp: Dùng Bạch Giới Tử, tụng Tâm Minh một biến gia trì rồi ném Giới.
Tử này vào thân tượng con voi, đốt An Tất Hương xông ướp, lại tụng Tâm Minh một biến thời tượng ấy tùy theo ý Hành Nhân khéo hay làm các việc, hoặc khiến phá Thiết Đốt Rô Śātru: oan gia cũng được tùy ý.
Lại có pháp: Nếu muốn vì người trừ bệnh sốt rét hoặc làm ủng hộ. Lấy tro, Bạch Giới Tử hòa chung với nước, tụng Tâm Minh mốt biến gia trì, đốt An Tất Hương xông ướp xong đem đeo ở trên thân thời bệnh sốt rét liền khỏi với được ủng hộ.
Lại có pháp: Nếu muốn chận đứng các việc sợ hãi, nên dùng sợi dây trắng, đốt An Tất Hương xông ướp, tụng Tâm Minh gia trì một biến rồi đeo trên cổ, tức trừ các sợ hãi.
Lại có pháp: Nếu muốn trừ các bệnh, nên dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì một biến, đốt xông ướp thân người bệnh thì các bệnh liền khỏi.
Lại có pháp: Nếu muốn Thiết Đốt Rô oan gia khiến bị Nhập Phạ La Jvara: Nóng sốt, nên dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì một biến, tức có thể khiến cho một ngàn Thiết Đốt Lỗ đều bị Nhập Phạ La nóng sốt.
Lại có pháp: Nếu muốn khiến cho Thiết đốt rô oan gia Tả Đô Lị Tha Ca Nhập Phạ Ra Sanh Giả Caturthakā jvara: Bệnh sốt rét cứ bốn ngày thì phát bệnh một lần, nên dùng Ngỗ Ma Sa hoà chung với An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì một biến, đọc tên thiết đốt rô, làm Hộ Ma bảy biến.
Tức bị tả đô lị tha ca nhập phạ ra Caturthakā jvara: Tứ nhật ngược. Nếu muốn khiến cho ngưng dứt, cũng dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì một biến, làm hộ ma bảy biến, liền được ngưng dứt.
Lại có pháp: Nếu muốn thiết đốt rô oan gia bị Ngật ra ha Grahā: Sao Diệu gây phiền não chấp trì nắm giữ, nên dùng An Tất Hương, đồng tụng Tâm Minh và tên của Thiết đốt rô gia trì bảy biến rồi ném vào trong lửa, tức bị Ngật ra ha chấp trì. Nếu muốn ngưng dứt, nên dùng tro gia trì một biến rồi đội ở trên đảnh đầu liền ngưng dứt.
Lại có pháp: Nếu muốn trừ các bệnh sốt rét, nên dùng sợi dây màu đen, tụng Tâm Minh gia trì một biến rồi đeo nơi cánh tay, liền khỏi bệnh.
Lại có pháp: Nếu muốn trừ các bệnh tật, nên dùng bảy thứ lúa và Bạch Giới Tử trộn chung với nhau rồi tẩm bơ, tụng Tâm Minh làm Hộ Ma Homa liền khỏi bệnh.
Lại có pháp: Nếu muốn giải cho người bị trúng các thuốc độc, nên dùng lông đuôi chim công, tụng Tâm Minh gia trì xong, quét phất nơi thân người bị trúng độc, liền được giải trừ chất độc.
Các Pháp như trên đều dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia trì, thảy đều được thành tựu.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Trượng - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bảy - Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Mười Tám - Phẩm Pháp Thứ Lớp Cúng Dường
Phật Thuyết Kinh Diệu Tý Bồ Tát Sở Vấn - Phần Tám - Nói Về Thành Tựu