Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Một - Phẩm đại - Kinh Thích Vấn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẦN MƯỜI MỘT
PHẨM ĐẠI
KINH THÍCH VẤN
Tôi nghe như vậy!
Một thời Đức Phật du hóa tại phía Đông thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, trong động đá Nhân Đà La, trên núi Bệ Đà Đề, phía Bắc thôn Nại Lâm.
Bấy giờ Thiên Vương Thích nghe Phật du hóa tại phía Đông thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, trong động Nhân Đà La, trên núi Bệ Đà Đề, phía Bắc thôn Nại Lâm.
Khi ấy, Thiên Vương Thích bảo Ngũ Kết nhạc tử rằng: Ta nghe Đức Thế Tôn du hóa tại phía Đông thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, trong động Nhân Đà La, trên núi Bệ Đà Đề, phía Bắc thôn Nại Lâm. Này Ngũ Kết, ngươi hãy cùng ta đến yết kiến Đức Thế Tôn.
Ngũ Kết nhạc tử thưa rằng: Xin vâng.
Rồi thì, Ngũ kết nhạc tử ôm đàn lưu ly cùng đi theo Thiên Vương Thích. Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên nghe Thiên Vương Thích rất khát khao muốn gặp Phật, Chư Thiên Tam Thập Tam Thiên cũng theo hầu Thiên Vương mà đi. Bấy giờ trong khoảnh khắc, nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay.
Thiên Vương Thích cùng Chư Thiên Tam Thập Tam và Ngũ Kết biến mất khỏi Cõi Trời Tam Thập Tam, đã hiện đến phía Đông thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, trên núi Bệ Đà Đề, phía Bắc thôn Nại Lâm, cách động đá không xa. Lúc bấy giờ núi Bệ Đà Đề hào quang chiếu sáng rực rỡ như lửa cháy.
Nhân dân ở chung quanh núi thấy vậy nghĩ rằng: Núi Bệ Đà Đề bị lửa đốt cháy khắp nơi.
Khi ấy Thiên Vương Thích sau khi đã đứng xuống tại một nơi, bảo rằng: Này Ngũ Kết, Đức Thế Tôn là như vậy. Ngài ở trong rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, thích ở trên sườn núi cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, có đại oai đức. Cùng với Chư Thiên, ưa thích đời sống xa lánh, tĩnh tọa ấy, đời sống an ổn khoái lạc ấy.
Chúng ta chưa thông báo trước, không nên tự tiện bước tới. Này Ngũ Kết, ngươi hãy đi đến thông báo trước, sau đó chúng ta mới bước tới.
Ngũ kết thưa rằng: Xin vâng lời. Ngũ Kết sau khi vâng lời dạy của Thiên Vương Thích, liền ôm đàn lưu ly đi trước, đến động đá Nhân Đà La.
Rồi nghĩ rằng: Hãy ở nơi này, cách Phật không gần cũng không xa, để Phật biết được và nghe được âm thanh của ta.
Khi đã đến đứng ở nơi kia, Ngũ Kết gảy đàn và hát lên những bài tụng nói về tình yêu, nói về rồng, nói về Sa Môn, nói về A La Hán:
Hiền Nương ơi
Ta kính lễ Phụ Mẫu nàng
Mặt trăng và Đam Phù Lâu
Đã sanh nàng thù diệu,
Gây hoan lạc lòng ta
Như nóng cầu gió mát
Như khát cầu nước lạnh
Như vậy, ta yêu nàng,
Như La Hán yêu pháp
Như dòng nước, khó giữ
Lụy tình cũng như vậy
Đời đời mong sống chung,
Như cúng dường Vô Trước
Ao nước trong, vừa mát
Dưới đáy có cát vàng
Như voi chúa nóng bức,
Xuống ao tắm mặc tình
Như voi bị móc câu
Lòng ta bị nàng khuất
Hành động nàng không hay
Yểu điệu, chưa được nàng
Tâm ý ta hoàn toàn lệ thuộc,
Và phiền oan đã đốt cháy tim
Và vì vậy không còn hoan lạc,
Như một người đi vào hang hùm
Như Thích tử tư duy thiền tọa,
Hằng vui say trong sự nhất tâm
Như Mâu Ni đạt thành giác ngộ
Cũng diệu tịnh như ta được nàng
Như niềm vui Đại Thánh Mâu Ni
Do chứng đắc viên toàn giác đạo
Niềm vui ta cũng ở nơi kia,
Bằng khao khát được nàng hội tụ
Như người bệnh mong cầu phương dược
Như đói ăn hoài niệm thức ăn
Ơi Hiền Nữ, mong lòng ta tắt,
Như nước rưới cho ngọn lửa tàn
Nếu ta có hành vi tạo phước,
Như cúng dường La Hán chân nhân
Thọ báo ấy tức thành tịnh diệu,
Ta mong cùng Hiền Nữ sống chung
Ta ước nguyện bên nàng vĩnh kiếp
Không xa nàng sống lẻ đơn thân
Và ta hẹn theo nàng được chết,
Không mong gì cách biệt ly sanh
Ôi, Thiên đế cho tôi lời nguyện,
Bậc tôn cao Tam Thập Tam Thiên
Ôi Đại Thánh, trên đời tối thượng,
Biết cho tôi lời nguyện vững bền
Kính lễ Đấng Hùng Lực,
Tối thượng giữa nhân gian,
Dứt trừ gai ái dục,
Con lạy Đấng Nhật Thân.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ tam muội dậy, tán thán Ngũ Kết Nhạc tử: Lành thay! Lành thay!
Ngũ Kết, giọng ca của ngươi cùng với tiếng đàn hòa điệu. Tiếng đàn và giọng ca hòa điệu. Giọng ca không đi ngoài tiếng đàn. Tiếng đàn không đi ngoài giọng ca.
Này Ngũ Kết, ngươi nhớ lại ngày xưa, ngươi có ca tụng bài kệ liên quan đến tình yêu, liên quan đến rồng, liên quan đến Sa Môn, liên quan đến La Hán này chăng?
Ngũ Kết thưa rằng: Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân tự biết cho. Bạch Đại Tiên Nhân, ngày xưa, khi Thế Tôn mới chứng đắc giác đạo, ở tại Uất Bệ La, bên bờ sông Ni Liên Thiền, dưới gốc cây A Xà Hòa La Ni Câu Loại.
Bấy giờ con gái của Nhạc Vương Đam Phù Lâu, tên là Hiền Nguyệt Sắc và có một Thiên Thần tên là Kết, con trai của Ma Đâu Lệ, người đánh xe, yêu người con gái kia.
Bạch Đại Tiên Nhân, vị ấy trong lúc đang yêu người con gái ấy, con cũng yêu người con gái ấy. Nhưng, bạch Đại Tiên Nhân, khi con yêu người con gái ấy mà cuối cùng không được.
Bấy giờ con đứng sau người con gái ấy mà ngâm bài kệ liên quan đến tình yêu, liên quan đến rồng, liên quan đến Sa Môn, liên quan đến La Hán này.
Bạch Đại Tiên Nhân, khi con ngâm bài kệ này, người con gái ấy quay nhìn lại, hân hoan cười nụ và nói với con rằng:
Ngũ Kết, tôi chưa được thấy Phật Thế Tôn kia, nhưng tôi nghe từ các vị Trời Tam Thập Tam nói rằng: Đức Thế Tôn kia là Như Lai, là Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu.
Này Ngũ Kết, nếu anh đã từng nhiều lần ca ngợi Đức Thế Tôn, vậy anh có thể cùng với tôi đồng thờ kính Đấng Đại Tiên Nhân. Con chỉ gặp gỡ nàng được một lần duy nhất, từ đó về sau không còn thấy lại.
Bấy giờ Thiên Vương Thích nghĩ rằng: Ngũ Kết nhạc tử đã làm cho Thế Tôn ra khỏi thiền định, thông báo ta với Đức Thiện Thệ.
Rồi thì, Thiên Vương Thích nói: Ngũ Kết, ngươi hãy đến nơi ấy, thay mặt ta đảnh lễ sát chân Phật mà thăm hỏi Đức Thế Tôn rằng: Thánh Thể có khỏe mạnh, an ổn khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường chăng?
Bạch Đại Tiên Nhân, Thiên Vương Thích và Chư Thiên ở Tam Thập Tam muốn đến yết kiến Thế Tôn.
Ngũ kết thưa: Xin vâng!
Khi đó, Ngũ Kết bỏ đàn lưu ly xuống, chắp tay hướng về Phật, bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Kính Đại Tiên Nhân!
Thiên Vương Thích xin cúi đầu dưới chân Phật, thăm hỏi Thế Tôn rằng: Thánh Thể có khỏe mạnh, an ổn khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường chăng?
Bạch Đại Tiên Nhân, Thiên Vương Thích và Chư Thiên ở Tam Thập Tam muốn đến yết kiến Thế Tôn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo rằng: Này Ngũ Kết, mong cho Thiên Vương Thích được an ổn khoái lạc. Chư Thiên, loài người, A tu la, Kiền Thát Bà, La Sát và tất cả các loài chúng sanh khác đều được an ổn, khoái lạc. Này Ngũ Kết, Thiên Vương Thích có muốn đến yết kiến ta, vậy xin cứ tùy ý.
Ngũ Kết nghe Phật dạy xong, khéo léo thọ trì, đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra, trở về đến chỗ Thiên Vương Thích thưa rằng: Tâu Thiên Vương, tôi đã bạch với Thế Tôn. Thế Tôn nay đang đợi Thiên Vương. Mong Thiên Vương nên tự biết thời.
Bấy giờ, Thiên Vương Thích cùng Chư Thiên Tam Thập Tam và Ngũ kết nhạc tử đi đến chỗ Phật.
Khi ấy, Thiên Vương Thích cúi đầu sát chân Phật, ba lần tự xưng danh tánh rằng: Bạch Đại Tiên Nhân! Con là Thiên Vương Thích! Con là Thiên Vương Thích!
Đức Thế Tôn bảo: Quả thật vậy! Quả thật vậy!
Này Câu Dực, ngươi chính là Thiên Vương Thích.
Thiên Vương Thích ba lần tự xưng danh tánh, đảnh lễ chân Phật rồi đứng sang một bên.
Khi ấy, Thiên Vương Thích thưa rằng: Bạch Đại Tiên Nhân, con nên ngồi cách Thế Tôn xa hay gần?
Đức Thế Tôn dạy: Ngươi hãy ngồi gần ta.
Vì sao?
Vì người có hàng Chư Thiên quyến thuộc đông vậy. Rồi Thiên Vương Thích đảnh lễ chân Phật và ngồi sang một bên. Chư Thiên Tam Thập Tam và Ngũ Kết nhạc tử cũng đảnh lễ chân Phật rồi ngồi sang một bên. Lúc ấy động Nhân Đà La bỗng nhiên rộng lớn.
Vì sao?
Vì do oai thần của Phật và oai đức của Chư Thiên vậy.
Thiên Vương Thích sau khi ngồi xuống, thưa rằng: Bạch Đại Tiên Nhân, đã từ lâu con muốn đến yết kiến Thế Tôn, muốn thưa hỏi về giáo pháp. Bạch Đại Tiên Nhân, xưa kia, một thời Đức Thế Tôn du hóa tại nước Xá Vệ, trong một vách đá.
Bạch Đại Tiên Nhân, lúc đó con có việc riêng, cùng với Chư Thiên Tam Thập Tam đi xe ngàn voi đến nhà của Đại Vương Bệ Sa Môn. Bệ Sa Môn Đại Vương gia có người thiếp tên là Bàn Xà Na.
Lúc bấy giờ Thế Tôn đang nhập định, im lặng tịch nhiên. Người thiếp kia chắp tay đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn.
Bạch Đại Tiên Nhân, con nói với Bàn Xà Na rằng: Này Hiền Muội, nay không phải lúc ta đến yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang nhập định.
Nếu khi nào Thế Tôn xuất định, Hiền Muội hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và hỏi thăm Thánh Thể của Thế Tôn có khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường không nói như vậy:
Bạch Đại Tiên Nhân, Thiên Vương Thích đảnh lễ chân Phật và thăm hỏi rằng: Thế Tôn có khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường không?
Bạch Đại Tiên Nhân, cô em ấy có thay mặt con đảnh lễ chân Phật và thăm hỏi Thế Tôn, Thế Tôn có nhớ chăng?
Đức Thế Tôn bảo: Này Câu Dực, cô em ấy có thay mặt ngươi đảnh lễ và cũng nói lại ý ngươi muốn thăm hỏi. ta có nhớ việc ấy. Này Câu Dực, khi người đi, ta nghe tiếng xe lăn mà xuất định.
Bạch Thế Tôn, ngày xưa con có nghe rằng, khi Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở đời thì Thiên Chúng được hưng thịnh mà A tu la bị giảm thiểu.
Bạch Đại Tiên Nhân, chính mắt con trông thấy Tỳ Kheo đệ tử Thế Tôn theo Phật tu hành phạm hạnh, xả dục, ly dục. Khi thân hoại mạng chung được đến cõi an lành, sanh lên Trời.
Bạch Đại Tiên Nhân, Thích nữ Cù Tỳ là đệ tử của Thế Tôn cũng theo Thế Tôn tu tập phạm hạnh, ghê tởm thân nữ, ái lạc thân nam, chuyển thân nữ thành thân nam, xả dục, ly dục, khi thân hoại mạng chung được sanh đến cõi Tam Thập Tam Thiên làm con của con.
Nàng đã thọ sanh rồi, Chư Thiên thảy đều biết, Cù Bà thiên tử, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần.
Bạch Đại Tiên Nhân, con lại thấy có ba vị Tỳ Kheo đệ tử Thế Tôn cũng theo Thế Tôn tu tập phạm hạnh, nhưng không xả ly dục, khi thân hoại mạng chung chúng sanh vào trong Kỹ nhạc cung thấp kém. Họ đã thọ sanh rồi, ngày ngày đến Tam Thập Tam Thiên cùng Chư Thiên hầu hạ Cù Bà Thiên Tử.
Thiên Tử thấy chúng liền nói bài kệ:
Pháp nhãn Ưu Bà Di,
Tôi vốn tên Cù Tì,
Phụng kính Phật và pháp,
Tịnh ý thờ Tăng Già
Tôi đã nhờ ân Phật,
Thích tử phước đức lớn,
Diệu sanh Tam Thập Tam,
Thiên Tử, mọi người biết
Biết người vốn Tỳ Kheo,
Sanh làm thần kỹ nhạc
Chắp tay đứng trước mặt
Cù Bà nói kệ cho
Vốn con Đức Cù Đàm
Khi tôi ở nhân gian,
Nhà ta các ngươi đến
Ẩm thực tôi cúng dường
Ngươi vốn cùng Bậc Thánh
Hành vô thượng phạm hạnh
Nay lại để người sai,
Thường nhật kính phụng Trời
Xưa tôi hầu hạ người,
Cùng nghe Thánh Diệu Pháp
Được tín, thành tựu giới
Khéo sanh Cõi Trời này
Người vốn được thờ phụng,
Hành vô thượng phạm hạnh
Nay lại để người sai
Thường nhật kính phụng Trời
Mặt mày người là gì?
Phật pháp đã thọ trì,
Quay lưng, không hướng pháp,
Pháp nội tâm chứng tri,
Thánh nhãn đã dạy rõ
Tôi xưa hầu các vị
Nay nhạc thần thấp kém
Tự theo phi pháp hành,
Tự sanh chỗ phi pháp
Ta sống đời tại gia
Nay xem thắng đức ta,
Chuyển nữ thành Thiên Tử,
Thọ ngũ dục tự do
Con Cù Đàm bị mắng,
Buồn nản, khen Cù Đàm:
Ta nay hãy tiến hành
Thiên Tử nói thật đúng
Hai trong số cần hành,
Nhớ pháp luật Cù Đàm,
Biết dục là tai họa,
Bèn xả ly dục tham
Chúng bị dục trói chặt,
Tức xả ly được liền
Như voi bứt dây xích,
Vượt Tam Thập Tam Thiên
Nhân Đà La, Thiên, Phạm,
Tất cả đều đến nhóm
Họ liền vượt chỗ ngồi,
Hùng mãnh xả trần dục
Đế Thích thấy chúng phiền
Thắng Thiên, Trời trên Trời
Chúng vốn sanh hạ tiện,
Nay vượt Tam Tam Thiên
Ưu phiền, rồi tấm tắc
Cù Bà nói sau hết,
Loài người có Đại Giác,
Đấng Mâu Ni thắng dục
Con Ngài do lãng quên,
Bị quở trách, lại được
Một trong ba vị kia
Sanh trong thần kỹ nhạc
Hai vị chánh đạo thành
Tại Trời, vui định căn
Ngươi nói pháp như vậy
Đệ tử không mê hoặc,
Vượt lậu, đoạn tà nghi,
Lễ Phật, thắng phục căn
Bởi vì tỏ các pháp,
Hai vị được tiến thăng
Từ chỗ tiến thăng ấy
Sanh lên Trời Phạm Thiên
Chúng con biết pháp ấy
Nên đến đây, Đại Tiên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng: Vị quỷ này không bao giờ dua nịnh, dối trá, không huyễn hoặc, chất trực. Nếu có hỏi tất là muốn biết, chứ không phải muốn xúc nhiễu. Những điều vị này muốn hỏi cũng vậy. Ta hãy nói A Tỳ Đàm thậm thâm.
Đức Thế Tôn biết như thế rồi, Ngài liền nói bài kệ cho Thiên Vương Thích:
Vì an lạc đời này,
Và an lạc đời sau,
Câu Dực tùy ý hỏi,
Theo những điều sở thích
Điều này hay điều kia,
Ta quyết đoán hết thảy
Thế Tôn đã nghe cho
Nhật Thiên cầu đạo nghĩa,
Tại nước Ma Kiệt Đà
Hiền Bà Sa Bà hỏi.
Bấy giờ Thiên Vương Thích thưa rằng: Bạch Thế Tôn, các loại Trời, người, A tu la, Kiền Đạt Hòa, La Sát và các chủng loại khác, mỗi mỗi có bao nhiêu kết sử?
Đức Thế Tôn nghe xong, đáp: Này Câu Dực, các loại Trời, người, A tu la, Kiền Đạt Hòa, La Sát và các chủng loại khác, mỗi mỗi đều có hai kết là bỏn sẻn và ganh tị.
Mỗi chủng loại ấy đều nghĩ rằng: Mong sao ta không gậy, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, không đấu, không khổ, sống trong an lạc. Chúng tuy nghĩ như vậy, nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có nhuế, có tranh, có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc.
Thiên Vương Thích nghe thế, thưa rằng: Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, các loài Trời, người, A tu la, Kiền Đạt Hòa, La Sát và các chủng loại khác, mỗi mỗi đều có hai kiết sử.
Chúng nghĩ rằng: Mong sao ta không gậy, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, không đấu, không khổ, mà sống trong sự an lạc. Chúng tuy nghĩ như vậy, nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có nhuế, có tranh, có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc.
Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn!
Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Rồi lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, bỏn sẻn, ganh tị do nhân gì duyên gì, từ đâu sanh ra, do đâu mà có?
Lại do nhân gì, duyên gì mà không có bỏn sẻn và ganh tị?
Thế Tôn đáp rằng: Này Câu Dực, bỏn sẻn và ganh tị nhân nơi yêu và không yêu, duyên nơi yêu và không yêu. Từ nơi yêu và không yêu sanh ra. Do yêu và không yêu mà có. Nếu không có yêu, và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị vậy.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng: Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Bỏn sẻn và ganh tị nhân nơi yêu và không yêu, duyên nơi yêu và không yêu. Từ nơi yêu và không yêu sanh ra. Do yêu và không yêu mà có. Nếu không có yêu, và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị.
Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, yêu và không yêu là do nhân gì, duyên gì, từ đâu phát sanh, do đâu mà có?
Lại do nhân nào mà không có yêu và không yêu?
Đức Thế Tôn bảo rằng: Này Câu Dực, yêu và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng: Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Yêu và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy.
Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, dục là do nhân gì, duyên gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có.
Do nhân nào không có dục?
Đức Thế Tôn đáp: Này Câu Dực, dục là do nhân niệm và duyên nơi niệm, từ nơi niệm mà phát sanh. Do niệm mà có. Nếu không có suy niệm thì không có dục.
Thiên Vương Thích nghe thế thưa rằng: Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, dục là do nhân niệm và duyên nơi niệm, từ nơi niệm mà phát sanh. Do niệm mà có. Nếu không có suy niệm thì không có dục.
Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, niệm là do nhân gì, duyên gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có.
Lại do nhân nào không có suy niệm?
Đức Thế Tôn đáp: Này Câu Dực, niệm là nhân nơi tư và duyên nơi tư, từ nơi tư mà phát sanh, do tư mà có. Nếu không có tư thì không có niệm. Do niệm có dục, do dục có yêu và không yêu. Do yêu và không yêu có bỏn sẻn và ganh tị. Do bỏn sẻn và ganh tị mà sanh ra dao, gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn khổ đau này phát sanh.
Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không có niệm thì không có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và không yêu. Nếu không có yêu và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị.
Nếu không có bỏn sẻn và ganh tị thì không có dao gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng: Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch Thiện Thệ!
Con đã hiểu, bạch Đại Tiên Nhân. Niệm là nhân nơi tư và duyên nơi tư, từ nơi tư mà phát sanh, do tư mà có. Nếu không có tư thì không có niệm.
Do niệm có dục, do dục có yêu và không yêu. Do yêu và không yêu có bỏn sẻn và ganh tị. Do bỏn sẻn và ganh tị mà sanh ra dao, gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn khổ đau này phát sanh.
Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không có niệm thì không có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và không yêu. Nếu không có yêu và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị.
Nếu không có bỏn sẻn và ganh tị thì không có dao gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt.
Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe xong những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, thế nào là con đường tiêu diệt hý luận.
Tỳ Kheo thực hành như thế nào để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận?
Đức Thế Tôn đáp rằng: Này Câu Dực, con đường tiêu diệt hý luận là Thánh đạo tám chi. Đó là, chánh kiến, chánh tư duy, cho đến chánh định. Này Câu Dực, đó là con đường tiêu diệt hý luận. Tỳ Kheo thực hành như vậy để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận.
Thiên Vương Thích nghe dạy xong, thưa rằng: Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, con đường tiêu diệt hý luận là Thánh đạo tám chi. Đó là, chánh kiến, chánh tư duy, cho đến chánh định. Này Câu Dực, đó là con đường tiêu diệt hý luận. Tỳ Kheo thực hành như vậy để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận.
Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như pháp mà Đức Phật đã dạy, con đã rõ. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, một Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận phải đoạn bao nhiêu pháp và hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn đáp: Này Câu Dực, Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận phải đoạn ba pháp và tu hành ba pháp.
Thế nào là ba?
Một là niệm, hai là ngôn, ba là cầu. Này Câu Dực, niệm ấy ta nói có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu niệm mà không nên hành thì ta liền đoạn trừ. Nếu niệm nên hành thì ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu niệm kia vậy. Ngôn cũng như thế.
Này Câu Dực, cầu ấy ta nói cũng có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu cầu mà không nên hành thì ta liền đoạn. Nếu cầu mà nên hành thì ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí, để thành tựu cầu kia vậy.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa: Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Tỳ Kheo không hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, đoạn ba pháp, tu hành ba pháp.
Thế nào là ba?
Một là niệm, hai là ngôn, ba là cầu. Đại Tiên Nhân đã nói, niệm có hai loại nên hành và không nên hành. Nếu niệm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ.
Nếu niệm giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu niệm kia vậy.
Ngôn cũng như vậy. Đại Tiên Nhân đã nói cầu cũng có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu cầu tăng trưởng pháp ác bất thiện và tổn giảm thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ.
Nếu cầu mà giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu cầu kia vậy.
Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!
Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ!
Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như Pháp Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, có bao nhiêu pháp.
Để thủ hộ Tùng giải thoát , hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn đáp: Này Câu Dực, Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận có sáu pháp.
Để thủ hộ tùng giải thoát hành sáu pháp.
Sáu pháp ấy là gì?
Đó là, mắt thấy sắc, tai nghe thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp.
Này Câu Dực, mắt thấy sắc ấy, ta nói có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu mắt thấy sắc không nên hành thì ta liền đoạn trừ. Nếu mắt sắc nên hành thì ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu mắt vậy.
Cũng như thế, đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc và ý biết pháp ấy, ta nói cũng có hai loại, nên hành và không nên hành.
Nếu ý biết pháp không nên hành thì ta liền đoạn trừ. Nếu ý biết pháp nên hành thì ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu ý vậy.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa: Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận có sáu pháp. Để thủ hộ Tùng giải thoát hành sáu pháp.
Sáu pháp ấy là gì?
Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp. Đại Tiên Nhân đã nói, mắt thấy sắc có hai loại, nên hành và không nên hành.
Nếu mắt thấy mà tăng trưởng pháp ác bất thiện và làm tổn giảm thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ. Nếu mắt thấy sắc làm tổn giảm pháp ác bất thiện và làm tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành vậy.
Có niệm, có trí để thành tựu mắt vậy. Cũng như thế, đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp cũng có hai loại, nên hành và không nên hành.
Nếu ý biết pháp làm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ. Nếu ý biết pháp làm tổn giảm pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu ý vậy.
Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như Pháp Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, vị Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc, phải đoạn bao nhiêu pháp và tu hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn dạy: Này Câu Dực, Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc, lại cũng phải đoạn ba pháp và tu hành ba pháp.
Ba pháp ấy là gì?
Một là hỷ, hai là ưu và ba là xả.
Này Câu Dực, hỷ ấy ta nói có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu hỷ mà không nên hành thì ta liền đoạn trừ. Nếu hỷ nên hành thì ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu hỷ vậy. Ưu cũng như thế.
Này Câu Dực, xả ấy ta nói cũng có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu xả mà không nên hành thì ta liền đoạn trừ. Nếu xả nên hành thì ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu xả vậy.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa: Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Tỳ Kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc phải đoạn trừ ba pháp và thực hành ba pháp.
Ba pháp ấy là gì?
Một là hỷ, hai là ưu, ba là xả. Đại Tiên Nhân đã nói hỷ có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu hỷ làm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì liền đoạn trừ.
Nếu hỷ làm giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu hỷ vậy.
Ưu cũng như thế. Đại Tiên Nhân đã nói xả cũng có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu xả làm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì liền đoạn trừ. Nếu xả làm tổn giảm pháp ác bất thiện và trăng trưởng thiện pháp thì biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu xả vậy.
Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!
Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ!
Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như Pháp Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa Môn, Phạm Chí đều đồng một thuyết, đồng một mong cầu, đồng một sở thích, đồng một an lạc, đồng một ý hướng chăng?
Đức Phật dạy: Này Câu Dực, tất cả Sa Môn, Phạm Chí không đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích, không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa Môn, Phạm Chí vì lý do gì mà không đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích, không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng?
Đức Thế Tôn đáp: Này Câu Dực, Thế Giới này có nhiều chủng loại giới, có vô lượng giới. Vị ấy tùy theo một giới được biết đến, rồi nhân giới đó tùy khả năng của mình mà nói một chiều rằng Đây là chân thật, ngoài ra đều hư dối.
Này Câu Dực, cho nên tất cả Sa Môn, Phạm Chí không đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích, không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng vậy.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa: Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Thế Giới này có nhiều chủng loại giới, có vô lượng giới. Vị ấy tùy theo một giới được biết đến, rồi ở nơi giới đó tùy khả năng của mình mà nói một chiều rằng Đây là chân thật, ngoài ra đều hư vọng.
Bạch Đại Tiên Nhân, vì thế mà tất cả Sa Môn, Phạm Chí không đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích, không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng vậy.
Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như Pháp Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi: Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa Môn, Phạm Chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh chăng?
Đức Thế Tôn đáp: Này Câu Dực, không hẳn tất cả Sa Môn, Phạm Chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
Thiên Vương Thích, thưa: Bạch Đại Tiên Nhân, vì lý do gì mà không hẳn tất cả Sa Môn, Phạm Chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh phạm bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh?
Đức Thế Tôn đáp: Này Câu Dực, nếu có Sa Môn, Phạm Chí đối với vô thượng ái tận, không toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy không đạt đến cứu cánh, không cứu cánh bạch tịnh, không cứu cánh phạm hạnh, không thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
Này Câu Dực, nếu có Sa Môn, Phạm Chí đối với vô thượng ái tận toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
Thiên Vương Thích, thưa: Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ!
Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, nếu có Sa Môn, Phạm Chí đối với vô thượng ái tận không hoàn toàn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy không đạt đến cứu cánh, không cứu cánh bạch tịnh, không cứu cánh phạm hạnh, không thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
Bạch Đại Tiên Nhân, nếu có Sa Môn, Phạm Chí đối với vô thượng ái tận toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như Pháp Phật đã nói, con đã biết, con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy. Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại nói: Bạch Đại Tiên Nhân, con lâu nay bị gai nhọn nghi hoặc, ngày nay được Thế Tôn nhổ ra.
Vì sao?
Vì Như Lai là bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác vậy.
Đức Thế Tôn hỏi: Này Câu Dực, ngươi nhớ lại ngày xưa ngươi đã từng hỏi các Sa Môn, Phạm Chí việc như thế chăng?
Thiên Vương Thích đáp: Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân tự biết cho.
Bạch Đại Tiên Nhân, Chư Thiên Tam Thập Tam tập họp tại pháp đường, đều ôm lòng sầu não, thường than thở rằng chúng ta nếu gặp được Đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, quyết sẽ đến yết kiến.
Bạch Đại Tiên Nhân, nhưng chúng con không gặp được Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, bèn thụ hưởng đầy đủ công đức của ngũ dục.
Bạch Đại Tiên Nhân, chúng con phóng dật. Sau khi sống phóng dật, vị Thiên Tử có đại oai đức, ngay nơi chỗ cực diệu mà mạng chung.
Bạch Đại Tiên Nhân, khi con thấy vị thiên tử đại oai đức ngay nơi chỗ cực diệu mà mạng chung bèn chán nản hết sức, lông tóc đều dựng ngược mong ta không ở nơi này mà mạng chung nhanh chóng.
Bạch Đại Tiên Nhân, con do sự chán này, sự ưu não này, nên thấy Sa Môn, Phạm Chí nào sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, thích ở trên sườn núi cao, vắng bặt không có tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa.
Sau khi thấy vị ấy ưa thích nơi xa vắng, tĩnh tọa, sống an ổn khoái lạc, con cho rằng đây là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, liền đến yết kiến.
Vị ấy không biết con, nên hỏi rằng: Ông là ai?
Lúc đó con đáp rằng Bạch Đại Tiên Nhân, con là Thiên Vương Thích.
Bạch Đại Tiên Nhân, con là Thiên Vương Thích. Vị ấy lại hỏi ta từng thấy Thích và cũng thấy chủng tánh Thích.
Vì lý do gì gọi là Thích?
Vì lý do gì gọi là chủng tánh Thích?
Con liền đáp rằng Bạch Đại Tiên Nhân, nếu có ai đến hỏi con việc như vậy, con liền tùy khả năng, tùy sức mà trả lời, cho nên được gọi là Thích.
Vị ấy lại hỏi chúng ta nếu tùy theo việc mà hỏi Thích, Thích cũng tùy việc mà đáp lại ta.
Vị ấy hỏi việc con, nhưng con không hỏi việc vị ấy. Vị ấy quy mạng con, nhưng con không quy mạng vị ấy.
Bạch Đại Tiên Nhân, từ nơi Sa Môn Phạm Chí kia, hoàn toàn không được oai nghi giáo pháp, huống nữa lại được hỏi như vậy sao?
Lúc ấy, Thiên Vương Thích nói bài tụng:
Thích đi qua, đi qua
Thích hay nói như thế
Ý tưởng niệm lìa xa
Trừ nghi, các do dự
Từ lâu đi trong đời,
Tìm cầu Đức Như Lai
Thấy Sa Môn, Phạm Chí
Tĩnh tọa nơi xa xôi
Cho là Chánh Đẳng Giác
Đến phụng cúng, lạy thờ:
Làm sao được thăng tấn
Như vậy con hỏi Ngài
Đã hỏi, không được đáp,
Thánh đạo và đạo tích
Thế Tôn nay vì con,
Nếu ý có sở nghi,
Sở niệm và sở tư,
Và sở hành của ý
Biết tâm ẩn và hiện,
Thánh Nhãn nói cho hay
Tôn Phật là Đạo Sư,
Tôn Vô trước Mâu Ni,
Tôn Bậc đoạn kết sử,
Độ mình và độ người
Đệ nhất trong hàng giác ngộ
Tối thượng ngự trong hàng Điều Ngự
Tối diệu tịch trong hàng tịch tĩnh
Đấng Đại Tiên, độ mình, độ người
Nên con lễ Đại Hùng
Cúi lạy Tối Thượng Nhân
Đoạn tuyệt gai ái dục
Kính lạy Đấng Nhật Thân.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại hỏi rằng: Này Câu Dực, ông có nhớ ngày xưa, được xả ly như vậy, được hoan hỷ như vậy, nghĩa là do nơi ta mà đạy được pháp hỷ chăng?
Thiên Vương Thích thưa: Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân tự biết cho.
Bạch Đại Tiên Nhân, một thời xưa, Chư Thiên và A tu la chiến đấu với nhau.
Bạch Đại Tiên Nhân, khi Chư Thiên và A tu la chiến đấu với nhau, con nghĩ rằng Mong Chư Thiên thắng, phá vỡ A tu la. Thực phẩm của Chư Thiên và thực phẩm của A tu la hãy để tất cả cho Tam Thập Tam Thiên thọ thực.
Bạch Đại Tiên Nhân, khi Chư Thiên đánh nhau với A tu la, Chư Thiên đắc thắng, phá vỡ chúng A tu la. Thực phẩm của Chư Thiên và thực phẩm của A tu la, tất cả đều được Chư Thiên Tam Thập Tam thọ thực.
Bạch Đại Tiên Nhân, bây giờ có ly, có hỷ, nhưng xen lẫn dao gậy, kết oán, đấu tranh, thù nghịch, không được thần thông, không được giác đạo, không được Niết Bàn.
Bạch Đại Tiên Nhân, ngày nay được ly, được hỷ, không xen lẫn dao gậy, kết oán, đấu tranh, thù nghịch, được thần thông, được giác đạo và được Niết Bàn.
Đức Thế Tôn hỏi: Này Câu Dực, do đâu ngươi được ly được hỷ?
Do nơi ta mà được Pháp Hỷ chăng?
Thiên Vương Thích đáp rằng: Bạch Đại Tiên Nhân, con nghĩ rằng ta mạng chung ở đây, sanh nơi nhân gian. Ở đó nếu có dòng họ rất giàu sang, tiền của vô số, sản nghiệp, súc mục không thể tính được.
Phong hô thực ấp các thứ đầy đủ, hoặc là chủng tộc Sát Lợi trưởng giả, chủng tộc Phạm Chí trưởng giả và các chủng tộc khác, rất là giàu sang, của cải vô số, sản nghiệp, súc mục không thể tính được.
Phong hô thực ấp các thứ đầy đủ. Sau khi sanh vào chủng tộc như thế, thành tựu các căn, có tín tâm đối với pháp luật mà Đức Như Lai giảng thuyết.
Sau khi có tín tâm, liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca Sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo và học trí.
Sau khi học trí, nếu thành đạt trí, liền chứng đắc cứu cánh trí, đạt đến biên tế cứu cánh. Nếu sau khi học trí mà không được cứu cánh học trí và sau khi học trí thì có Chư Thiên nào đó có đại phước hựu, có sắc tượng uy nguy, chói sáng rực rỡ, rất có oai lực, an ổn khoái lạc, sống mãi trong cung, sanh nơi tối thượng. ta sanh trong đó.
Bấy giờ Thiên Vương Thích nói bài tụng:
Xả ly thân Thiên Thần,
Sanh xuống nơi nhân gian
Thác thai không ngu muội,
Tùy sở thích hân hoan
Thành thân đã hoàn mãn,
Chất trực, tu Thánh Đạo,
Hành phạm hạnh trọn đủ
Sống vui đời xin ăn.
Và sau khi học trí, nếu được trí, liền chứng đắc cứu cánh trí, đạt đến biên tế cứu cánh. Nếu học trí và sau khi học trí rồi mà được trí nhưng không chứng đắc cứu cánh trí, đã thành vị Trời tối thượng diệu, Chư Thiên đều nghe danh, đó là Sắc Cứu Cánh Thiên, sẽ sanh vào đó.
Bạch Đại Tiên Nhân, con mong sẽ chứng đắc A Na Hàm.
Bạch Đại Tiên Nhân, con nay đã chứng đắc Tu Đà Hoàn.
Đức Thế Tôn hỏi: Này Câu Dực, ngươi do đâu mà được sai giáng rất tốt đẹp, cực cao, cực rộng này, để có thể tự nói là đã chứng đắc Tu Đà Hoàn?
Bấy giờ Thiên Vương Thích dùng bài kệ đáp:
Không còn tôn ai khác
Ngoài cảnh giới Thế Tôn.
Chứng Vô Thượng sai giáng,
Cõi này thật chưa từng.
Đại Tiên, con ngồi đây,
Ngay với thân Trời này
Con liền được tăng thọ
Chính mắt thấy như vậy.
Khi nói pháp này, Thiên Vương Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn của các pháp phát sanh. Tám vạn Chư Thiên cũng được xa lìa trần cấu, pháp nhãn của các pháp phát sanh.
Khi ấy Thiên Vương Thích thấy pháp, đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn tôn ai khác, không còn do ai khác, không còn do dự, đã an trụ trên quả chứng, đối với giáo pháp của Phật mà chứng đắc vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, thưa rằng: Bạch Thế Tôn, con nay xin tự Quy Phật, Pháp và Chúng Tỳ Kheo. Ngưỡng mong Thế Tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con tự quy y cho đến khi mạng chung.
Bấy giờ Thiên Vương Thích ngợi khen Ngũ Kết nhạc tử rằng: Lành thay! Lành thay! Ngũ Kết, ngươi đã giúp ích cho ta rất nhiều.
Lý do vì sao?
Do ngươi mà Phật xuất định, bởi ngươi trước hết khiến Thế Tôn từ định ra, khiến ta sau đó mới yết kiến được Thế Tôn.
Này Ngũ Kết. Sau khi từ đây trở về, ta đem Hiền Nguyệt Sắc, con gái của Nhạc Vương Đam Phù Lâu gã cho ngươi và đem bổn quốc của Nhạc Vương ấy trao cho ngươi, phong tặng ngươi làm Vua kỹ nhạc.
Bấy giờ Thiên Vương Thích bảo Chư Thiên Tam Thập Tam rằng: Các ngươi hãy lại đây!
Nếu trước kia chúng ta vốn là Phạm Thiên, sống trên cõi Phạm Thiên, thường ba lần cung kính, lễ sự Phạm Thiên Vương thì các vị ấy nay tất cả đều cung kính lễ sự Thế Tôn.
Lý do vì sao?
Vì Thế Tôn là Phạm Thiên, là vị Phạm Thiên sẽ tạo hóa những bậc tối tôn, những chúng sanh đã sanh, những chúng sanh đã có và sẽ có, những gì Phạm Thiên biết, Ngài đều biết hết, những gì Phạm Thiên có thể thấy, Ngài đều thấy hết.
Rồi Thiên Vương Thích, Chư Thiên cõi Tam Thập Tam, Ngũ Kết nhạc tử, nếu trước kia từng là Phạm Thiên, sống trên Cõi Phạm Thiên, ba lần cung kính, lễ sự Phạm Thiên, thì nay họ thảy đều hướng sự cung kính, lễ sự ấy đến Đức Thế Tôn, cúi đầu trước Đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, Thiên Vương Thích, Chư Thiên Tam Tập Tam và Ngũ Kết nhạc tử lại lần nữa cung kính lễ sự Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi bỗng nhiên biến mất khỏi chỗ đó, không thấy nữa.
Bấy giờ Phạm Thiên với sắc tượng nguy nguy, sáng chói rực rỡ, vào lúc Trời gần sáng, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát chân Phật, rồi đứng sang một bên, dùng kệ bạch Thế Tôn:
Do gây nhiều thiện ích
Do lợi nghĩa, là Trời.
Hiền Giả ở Ma Kiệt,
Bà Sa Bà hỏi han.
Khi Đại Tiên Nhân nói pháp này, Thiên Vương Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp khác phát sanh và tám vạn Chư Thiên cũng xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Phạm Thiên rằng: Quả như vậy! Quả như vậy!
Đúng như Phạm Thiên đã nói:
Do gây nhiều thiện ích
Do lợi nghĩa, là Trời
Hiền Giả ở Ma Kiệt,
Bà Sa Bà hỏi han.
Này Phạm Thiên, khi ta nói pháp, Thiên Vương Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh và tám vạn Chư Thiên cũng xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh.
Đức Phật thuyết như vậy. Thiên Vương Thích, Chư Thiên Tam Thập Tam, Ngũ Kết nhạc tử và Đại Phạm Thiên, sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Pháp Vị Tằng Hữu Chánh Pháp - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Hai - Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn
Phật Thuyết Kinh Tối Thượng Căn Bản đại Lạc Kim Cang Bất Không Tam Muội đại Giáo Vương - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Hai - Phẩm Hai Kệ - Phẩm Ba