Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Tiểu Kinh Sư Tử Hống
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TRUNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TIỂU KINH SƯ TỬ HỐNG
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn ở Savatthi Xá Vệ, tại Jetavana Kỳ Đà Lâm, trong vườn ông Anathapindika Cấp Cô Ðộc.
Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo! Bạch Thế Tôn, những Tỳ Kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết như sau: Này các Tỳ Kheo, chỉ ở đây là có Sa Môn thứ nhất. Ở đây là có Sa Môn thứ hai. Ở đây là có Sa Môn thứ ba. Ở đây là có Sa Môn thứ tư. Các ngoại đạo khác không có Sa Môn. Này các Tỳ Kheo, các ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.
Này các Tỳ Kheo, sự tình này xảy ra khi ở đây những Du Sĩ ngoại đạo có thể nói:
Chư Tôn Giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà Chư Tôn Giả tuyên bố:
Chỉ ở đây là có Sa Môn thứ nhất.
Ở đây là có Sa Môn thứ hai.
Ở đây là có Sa Môn thứ ba.
Ở đây là có Sa Môn thứ tư.
Các ngoại đạo khác không có Sa Môn.
Này các Tỳ Kheo, nếu được các Du Sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau: Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác nên chúng tôi nói: Chỉ ở đây là có Sa Môn thứ nhất, ở đây là có Sa Môn thứ hai. Sa Môn thứ ba. Sa Môn thứ tư.
Thế nào là bốn?
Chư Hiền, chúng tôi có lòng tin bậc Ðạo Sư, có lòng tin pháp, có sự thành tựu viên mãn các Giới luật, và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và những người xuất gia, được chúng tôi thương, chúng tôi mến.
Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác nên chúng tôi nói: Chỉ ở đây là Sa Môn. Sa Môn thứ tư.
Này các Tỳ Kheo, sự tình này xảy ra, khi ở đây, những du sĩ ngoại đạo có thể nói: Chư Hiền, chúng tôi cũng có lòng tin bậc Ðạo Sư, vị ấy là Ðạo Sư của chúng tôi. Chúng tôi có lòng tin pháp, pháp ấy là pháp của chúng tôi, chúng tôi thành tựu viên mãn các giới luật, những giới luật ấy là giới luật của chúng tôi. Và những pháp hữu của chúng tôi, những người Cư Sĩ và cả những người xuất gia, được chúng tôi thương, được chúng tôi mến.
Chư Hiền, như vậy có sự sai biệt gì, có sự đặc thù gì, có sự khác biệt gì giữa quý vị và chúng tôi?
Chư Tỳ Kheo, nếu được các du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau:
Chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu cánh là đa diện?
Nếu trả lời đứng đắn, các du sĩ ngoại đạo phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh là một, cứu cánh không phải đa diện.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có tham, hay cho người không tham?
Nếu trả lời đứng đắn, các du sĩ ngoại đạo phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không tham, không phải cho người có tham.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người không sân?
Nếu trả lời đứng đắn, các du sĩ ngoại đạo phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không sân, không phải cho người có sân.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có si hay cho người không si?
Nếu trả lời đứng đắn.
Phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không si, không phải cho người có si.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có ái, hay cho người không ái?
Nếu trả lời đứng đắn.
Phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ái, không phải cho người có ái.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có chấp thủ, hay cho người không chấp thủ?
Nếu trả lời đứng đắn.
Phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không chấp thủ, không phải cho người chấp thủ.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có trí, hay cho người không có trí?
Nếu trả lời đứng đắn.
Phải trả lời: Cứu cánh ấy cho người có trí, không phải cho người không có trí.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người thuận ứng, nghịch ứng hay cho người không thuận ứng, không nghịch ứng?
Nếu trả lời đứng đắn.
Phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho người thuận ứng, nghịch ứng.
Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa hý luận, thích hý luận hay cho người không ưa hý luận, không thích hý luận?
Nếu trả lời đứng đắn, các du sĩ ngoại đạo cần phải trả lời: Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ưa hý luận, không thích hý luận, không phải cho người ưa hý luận, thích hý luận.
Chư Tỳ Kheo, có hai loại tri kiến này: Hữu kiến và phi hữu kiến.
Chư Tỳ Kheo, những Sa Môn hay Bà La Môn nào chấp trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, cố chấp hữu kiến. Những vị ấy bị chướng ngại đối với phi hữu kiến.
Chư Tỳ Kheo, những Sa Môn hay Bà La Môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến, cố chấp phi hữu kiến. Những vị ấy bị chướng ngại bởi hữu kiến.
Chư Tỳ Kheo, những Sa Môn hay Bà La Môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của chúng, những vị này là những vị có tham, có sân, có si, có ái, có chấp thủ, không có trí, có thuận ứng, có nghịch ứng, có ưa hý luận, có thích hý luận. Những vị ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy không giải thoát khỏi đau khổ.
Chư Tỳ Kheo, những Sa Môn hay Bà La Môn nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất ly của chúng.
Những vị này là những vị không tham, không sân, không si, không ái, không chấp thủ, có trí, không có thuận ứng, không có nghịch ứng, không ưa hý luận, không thích hý luận. Những vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy giải thoát khỏi đau khổ. Chư Tỳ Kheo, có bốn chấp thủ.
Thế nào là bốn?
Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Chư Tỳ Kheo, có những Sa Môn, Bà La Môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ.
Vì sao vậy?
Những Hiền Giả Sa Môn, Bà La Môn ấy không như thật tuệ tri ba sự. Do vậy, những Hiền Giả Sa Môn, Bà La Môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ.
Chư Tỳ Kheo, có những Sa Môn hay Bà La Môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.
Vì sao vậy?
Những Hiền Giả Sa Môn, Bà La Môn ấy không như thật tuệ tri hai sự. Do vậy, những Hiền Giả Sa Môn, Bà La Môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ. Nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.
Chư Tỳ Kheo, có những Sa Môn, Bà La Môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ.
Vì sao vậy?
Những Hiền Giả Sa Môn, Bà La Môn ấy không như thật tuệ tri một sự. Do vậy, những Hiền Giả Sa Môn, Bà La Môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ.
Chư Tỳ Kheo, trong pháp và luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với Ðạo Sư, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn. Nếu có tịnh tín đối với pháp, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn.
Nếu có thành tựu viên mãn các giới luật, sự thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn. Nếu có sự thương mến đối với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn toàn.
Vì sao vậy?
Chư Tỳ Kheo, sự tình là như vậy, trong một pháp và luật không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị, không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.
Và Như Tỳ Kheo, bậc Như Lai, A La Hán, Chánh Ðẳng Giác tự xưng liễu tri tất cả thủ, chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Như Lai hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.
Chư Tỳ Kheo, trong pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn. Nếu có tịnh tín đối với pháp, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn.
Nếu có thành tựu viên mãn các giới luật, sự thành tựu ấy được xem là hoàn toàn. Nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là hoàn toàn.
Vì sao vậy?
Chư Tỳ Kheo, sự tình là như vậy, trong một pháp và luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có hướng thượng, dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.
Chư Tỳ Kheo, bốn loại chấp thủ này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân?
Bốn loại chấp thủ này lấy ái làm duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm chủng, lấy ái làm nhân.
Chư Tỳ Kheo, ái này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân?
Chư Tỳ Kheo, ái này lấy thọ làm duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm chủng, lấy thọ làm nhân.
Chư Tỳ Kheo, thọ này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân?
Chư Tỳ Kheo, thọ này lấy xúc làm duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm chủng, lấy xúc làm nhân.
Chư Tỳ Kheo, xúc này lấy gì làm duyên.
Lấy gì làm nhân?
Chư Tỳ Kheo, xúc này lấy sáu nhập làm duyên. Lấy sáu nhập làm nhân. Chư Tỳ Kheo, sáu nhập này lấy gì làm duyên.
Lấy gì làm nhân?
Chư Tỳ Kheo, sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên. Lấy danh sắc làm nhân. Chư Tỳ Kheo, danh sắc này lấy gì làm duyên.
Lấy gì làm nhân?
Chư Tỳ Kheo, danh sắc này lấy thức làm duyên. Lấy thức làm nhân. Chư Tỳ Kheo, thức này lấy gì làm duyên.
Lấy gì làm nhân?
Chư Tỳ Kheo, thức này lấy hành làm duyên. Lấy hành làm nhân.
Chư Tỳ Kheo, hành này lấy gì làm duyên.
Lấy gì làm nhân?
Chư Tỳ Kheo, hành này lấy vô minh làm duyên. Lấy vô minh làm nhân. Và Chư Tỳ Kheo, khi một Tỳ Kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm minh sanh khởi, vị ấy do vô minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên không chấp thủ dục thủ, không chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không chấp thủ ngã luận thủ. Nhờ không chấp thủ nên không tháo động, nhờ không tháo động, nên tự thân chứng được Niết Bàn.
Vị ấy tuệ tri: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỳ Kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Vương Tương ưng - Kinh Thất Bảo
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Nhãn Dĩ đoạn
Phật Thuyết Kinh Cửu Phẩm Vãng Sanh A Di đà Tam Ma địa Tập đà Ra Ni
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Tạp - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Ba - Quán Tướng - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Mười Năm - Phẩm Cứ đà Bố Thí Thân
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Mười Năm - Kinh Phương Thuốc Chóng Lớn