Phật Thuyết Kinh Tuệ ấn Tam Muội - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Chi Khiêm, Đời Ngô
PHẬT THUYẾT
KINH TUỆ ẤN TAM MUỘI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Chi Khiêm, Đời Ngô
PHẦN BỐN
Bấy giờ, Đức Phật vì Bạt Đà Tư Lợi Tuyên Na Lạp, phu nhân của Vua Bình Sa mà nói kệ:
Ta tự nhớ vô ương
Hằng hà sa số kiếp
Lúc ấy, ở đời có
Phật hiêu là Phước Minh
Truyền dạy ở thế gian
Thọ sáu mươi bảy kiếp
Chúng Tăng của Phật ấy
Cũng có vô ương số.
Lúc ấy, có Chuyển Luân
Vua tên là Tuệ Cương
Vua có hai người vợ
Một người tên Nguyệt Minh
Dục lạc không màng đến
Không chấp vào các pháp
Xuất gia đi học đạo
Hộ pháp một ức năm.
Như vậy không thể đếm
Vô số các Đức Phật
Sinh thời pháp sắp diệt
Hộ chánh pháp sau này
Mãi đến đời vị lai
Hằng hà sa Đức Phật…
Sẽ lại ở nơi ấy
Sinh ra giữ pháp sau.
Chuyển Luân Vương Tuệ Cương
Nhằm thời Phật A Súc
Vua cùng các phu nhân
Đều sinh ở nước ấy,
Đã giữ pháp thường còn
Mạng chung sinh thân nam
Ở Tu Ma Ha Đề
Gặp Phật A Di Đà.
Ưu Bà Di Ma Kiệt
Cùng tám ngàn thể nữ
Như khi pháp sắp diệt
Thường sẽ hộ pháp Phật,
Thân sau cùng sẽ được
Ba hai tướng như Phật
Ngồi trên tòa hoa sen
Đến trước Phật Di Đà.
Các thể nữ cúng dường
Sẽ như Vua Tuệ Cương
Như thế kiếp vị lai
Tất cả không ái dục,
Ở cuối đời vị lai
Tất cả sẽ thành Phật
Dạy dỗ cả Trời, người
Vì họ, nói chánh pháp.
Lúc ấy trong Cõi Phật
Không có việc ma chướng
Cõi ấy không ái dục
Cũng không ba đường ác.
Thường lấy vô ương số
Các Bồ Tát làm Tăng
Không nghe ở trong đạo
Có tên A La Hán.
Nếu có người muốn giữ
Pháp của các Đức Phật
Không muốn được danh tiếng
Chẳng mong được thọ mạng.
Người hành trụ như thế
Mau, gần thành Bồ Tát
Chí nguyện mình tự tại
Muốn sinh ở nước nào.
Giống như các Bồ Tát
Phải khởi ý cung kính
Ta khởi ý cung kính
Hộ pháp, không chỗ dựa
Hành giả làm như thế
Được lìa bỏ sinh tử
Ở thế gian chớ tạo
Thói quen tham đắm dục.
Ta ở vô số kiếp
Sở dĩ bỏ vợ con
Nước non và đầu, mắt
Vì lẽ cầu Phật Pháp.
Người không hạnh, nhận cúng
Phật Pháp vì thế hoại
Lần hồi khởi tranh đua
Vì muốn được cúng dường
Ngồi đến tám mươi ức
Người rơi lệ mà nói:
Nếu khi pháp sắp hết
Chúng ta, phải giữ pháp!
Lời nói động ba ngàn
Chư Thiên rải hoa khen:
Hay thay! Cho thế gian
Người mới nghe Kinh ấy
Tất cả cát Sông Hằng
Vô số các Cõi Phật
Đầy ấp các châu báu
Đều đem cúng dường Phật,
Không bằng tin chốc lát
Hiểu tam muội ấn này
Phước ấy muốn thí dụ
Không thể so với tuệ,
Không gắng sức vươn lên
Để được hạnh Bồ Tát
Nghe chánh pháp của Phật
Liền phát tâm Bồ Tát.
Nếu có người cung kính
Đối với tôn Kinh này
Người tạo hạnh như thế
Sẽ mau được thành Phật.
Khi ấy, Bồ Tát Di Lặc bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vị lai sẽ có bao nhiêu người thọ trì tam muội này?
Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Này Di Lặc! Ở đời vị lai, hoặc có người trì tưởng khởi công đức, giả sử ta nói ra sẽ có người không thích.
Bồ Tát Di Lặc thưa: Bạch Thế Tôn! Mong Đức Phật thương xót cả mọi người, xin Thế Tôn nói cho điều ấy. Nếu có những Bồ Tát nào, tha thiết muốn học, thì Bồ Tát ấy, sẽ giữ gìn hạnh của mình, không để khuyết giảm tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Này Di Lặc! có Bồ Tát đã ở trước môt trăm Đức Phật, phát tâm Bồ Tát, nhưng sau đó làm hư hoại hạnh Bồ Tát.
Hoặc có Bồ Tát đã ở trước ngàn Đức Phật phát tâm Bồ Tát nhưng sau đó phát tâm Bồ Tát trở lại, chê bai Kinh Điển đại thừa và cũng không tìm hiểu Kinh ấy.
Hoặc có Bồ Tát, đã ở trước mười vạn Đức Phật phát tâm Bồ Tát nhưng sau đó phát tâm Bồ Tát trởi lại, không chê bai Kinh Điển đại thừa và cũng không đọc, không phúng tụng Kinh ấy.
Hoặc có Bồ Tát, đã ở trước một trăm vạn Đức Phật phát tâm Bồ Tát nhưng sau đó, phát tâm Bồ Tát trở lại, không chê bai Kinh Điển đại thừa và cũng không đọc không phúng tụng Kinh ấy.
Hoặc có Bồ Tát đã ở trước một ức Đức Phật, phát tâm Bồ Tát, nhưng sau đó phát tâm Bồ Tát trở lại, nghe và ghi chép Kinh Điển đại thừa mà trong lúc nghe Kinh ấy không hiểu gì cả!
Hoặc có Bồ Tát đã ở trước mười ức Đức Phật, phát tâm Bồ Tát, nhưng sau đó phát tâm Bồ Tát trở lại, có được Kinh Điển đại thừa biên chép đọc tụng Kinh ấy, nhưng lại không thể đắc pháp nhẫn, cũng không thể đắc tam muội này và cũng không thích tam muội này.
Hoặc có Bồ Tát đã ở trước tám mươi ức Đức Phật, nghe tam muội này, thọ trì, đọc tụng tam muội ấy. Đã phát tâm Bồ Tát ở trước tám mươi ức Đức Phật, có được Kinh Điển đại thừa, thọ trì biên chép đọc tụng.
Đạt được tam muội này, giữ vững không có vết nhơ, thực hành tam muội ấy không bao giờ bị ma quấy nhiễu, không bị phạm phải tội lỗi. Hoặc ở trong A tăng kỳ kiếp đã tạo ra các tội lỗi, hoặc bị nhức đầu, liền trừ hết tội ấy.
Hoặc loạn tâm ý, hoặc bị chê bai, hoặc bị coi thường, hoặc ít được cúng dường, trong một đời đều dứt hết tội lỗi ở đời trước của mình. Hoặc cúng dường A tăng kỳ Đức Phật, sau đó, không bao giờ yếu đuối, hèn nhát, tâm trụ vững trong sự hiểu biết rõ ràng.
Hoặc có Bồ Tát mắc tội trong ác đạo, sẽ sinh ra nơi không đoan chánh, nhưng sau đó, tội ấy được tiêu trừ. Hoặc nhiều bệnh tật, gầy yếu, hoặc không được người kính trọng, sinh trong nhà thấp hèn, sinh trong nhà bị coi thường, sinh trong nhà nghèo khổ, sinh trong nhà xa xôi hẻo lánh.
Sinh trong nhà bỏn sẻn, tham lam, sinh trong nhà ngoại đạo. Sinh cùng với kẻ oán ghét không thể sống chung. Sống chung với người không hiểu về mình, trong lòng nhiều mối lo toan buồn phiền.
Sinh trong nước nào, thì nước đó thường xảy ra chiến tranh. Sinh ở quận nào, thì quận đó thường xảy ra việc đánh nhau. Sinh ở trong huyện nào, thì huyện đó thường xảy ra việc đánh nhau. Sinh ở trong làng nào, thì làng đó thường xảy ra việc đánh nhau.
Sinh ở trong dòng họ nào, thì dòng họ đó thường chóng đối lẫn nhau. Sinh ở những nơi đánh nhau. Không gặp thiện tri thức. Chẳng từng nghe pháp. Thiếu thốn y phục, mùng mền, cơm nước, giường chõng, ngọa cụ, thuốc thang chữa bệnh, dù được, thì chỉ chút ít mà thôi.
Nói năng hợp với người thường, mà không hợp với hàng trưởng giả, họ cũng không thể hiểu ý mình. Đối với công đức, không thể làm cho tăng thêm. Luôn luôn sống trong lỗi lầm, luôn luôn bị người khác quấy rối, không thể nhận được những vật cúng dường.
Hoặc được nghe pháp, nhưng không hiểu. Hoặc thấy ác mộng, ngay trong mông, trừ được tội lỗi đời trước của mình, bị tội lỗi lung lạc, bị ma quấy nhiễu mà không biết việc của ma, thường ở chung với những người không ưa thích.
Nếu có y phục, mùng mền tốt đẹp, thức ăn uống ngon, thì đem biếu hết cho người khác. Đối với một trăm Đức Phật, tự mình tạo công đức, tâm không vết dơ, lúc ấy, những tội chướng kia thảy đều tiêu diệt.
Thế nên, chắc chắn lại càng chắc chắn hơn, bên trong khởi lòng lành. Người có khả năng đảm nhận Tứ hoằng thệ của Bồ Tát, đối vơi pháp sâu xa mầu nhiệm vẫn trụ vững vàng để hành hạnh. Người ở đời vị lai, sẽ giữ lấy pháp này.
Lúc ấy, Bồ Tát Khả Ý Vương và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, cùng với sáu mươi Hiền Giả lưu lại ở đời vị lai để giữ gìn pháp sau này.
Đức Phật liền nói kệ:
Chớ hành dua nịnh
Nương chấp nơi có
Phải chánh ý mình
Trì tuệ đi đứng.
Vào sâu pháp mầu
Trụ nhẫn bất động
Nên tạo hạnh ấy
Mau cầu tam muội.
Chớ nên nịnh bợ
Xa lìa chấp nhơ
Chớ tham các cõi
Thích việc đua tranh.
Nên hành bình đẳng
Ví như hư không
Hành giả như thế
Mười thứ lực quý.
Thường phải vững tâm
Trú nơi Bồ Tát
Nên học pháp mầu
Ẩn sâu của Phật.
Tất cả các thọ
Tâm tuệ không ham
Đã có hạnh này
Đắc tam muội quý.
Tâm thường bình đẳng
Đối với thương ghét
Gặp thiện tri thức
Như thấy Chư Phật.
Thích hạnh bố thí
Trong hành bình đẳng
Người có hạnh này
Mau rõ tam muội.
Tuệ Kinh sáng ngời
Báu không thể hết
Trụ tam muội ấy
Không thể tính kể.
Kinh ấy sáng ngời
Hơn ánh mặt trời
Nên nói Kinh ấy
Phải vào tôn tuệ.
Ví như Trời trăng
Các đèn báu sáng
Giống như mùa Đông
Tuyết trên núi cao.
Ví như Thích, Phạm
Cùng với Tứ Thiên
Ánh sáng Kinh ấy
Hơn hẳn với họ.
Kinh trừ phiền não
Và tội của tâm
Hàng phục các ma
Liền được an ổn.
Thần túc thấy khắp
Biết được mạng xưa
Biết rõ tất cả
Ý người muốn gì!
Ta nhớ đời trước
Trải vô số kiếp
Ái dục đều dứt
Tất cả không còn.
Lúc Phật khen ngợi
Nói ấn Kinh này
Phải học như ta
Không lâu sẽ được.
Nếu có hành giả
Biết chắc rỗng không
Trong tâm rõ không
Nó vốn tự nhiên
Người tạo hạnh này
Là chấp nơi không
Người giữ gìn pháp
Xa lìa nơi không.
Sau ta Niết Bàn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Năm - Kinh Tập - Chương Hai - Tiểu Phẩm - Kinh Xấu Hổ
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Một - Phẩm Vô Thường - Thí Dụ Ba
Phật Thuyết Kinh Pháp Hoa Tam Muội - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Chín - Chín Pháp- Phẩm Sáu - Phẩm An ổn - Phần Năm - Vô úy
Phật Thuyết Kinh Phổ Diệu - Phẩm Tám - Phẩm Ngồi Dưới Gốc Cây Xem Cày Ruộng
Phật Thuyết Kinh đại An Ban Thủ ý - Phần Năm