Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai - Phẩm Dục - Tập Năm
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM HAI
PHẨM DỤC
TẬP NĂM
Như thỏ bị mắc bẫy: Bị mắc vào lưới, thỏ nhảy lung tung nhưng không có lối thoát. Chúng sinh cũng như vậy, họ bị ái dục làm mê hoặc trôi lăn trong sinh tử, lên xuống khắp năm đường, chìm sâu trong bốn dòng.
Bị kết sử quấn chặt: Chúng sinh bị lưới ái dục trói chặt, không thể thoát khỏi vòng sống chết.
Người ngu chịu khổ. Thân, miệng, ý của họ hành động không chân chánh, không phân biệt thiện ác, thọ thân trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Cho nên nói:
Luôn luôn chịu khổ não.
Chúng sinh bị ái khiến
Đắm nhiễm trong ba cõi
Tìm cách cầu giải thoát
Quyền biến mới thoát được.
Chúng sinh bị ái khiến: Bị ái dục sai khiến, bị kết sử buộc ràng.
Cho nên nói: Chúng sinh bị ái khiến.
Đắm nhiễm trong ba cõi: Cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.
Tìm cách cầu giải thoát: Thế nào là tìm cách?
Vì chúng sinh bị ái dục sai khiến, bị nghiệp sai khiến, vô minh sai khiến, tà kiến sai khiến, cứ thế chúng sinh đắm nhiễm các sử, làm sao thoát khỏi khổ não sinh tử?
Giống như có hai con trâu cùng bị cột vào một cái ách, có người theo sau quất roi thì làm sao không kéo nặng đi tới cho được?
Chúng sinh cũng lại như vậy.
Bốn dòng là sức nặng, bị gài cứng trong bốn ách đó, thì làm sao thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết được?
Quyền biến mới thoát được: Phải tìm cách, đang sống chung với cha mẹ, anh em, bà con, nhưng khi cái chết đến thì chia lìa nhau. Cho nên nói sinh, già, bệnh, chết ép ngặt, phải khéo tìm cách thoát ra. Các chúng sinh chưa dứt hết ái dục thì mãi mãi họ bị sinh, già, bệnh, chết đuổi theo sau. Người đã hết ái dục thì không còn sinh, già, bệnh, chết nữa.
Cho nên nói: Quyền biến mới thoát được sinh, già, bệnh, chết.
Nếu diệt được ái kia
Ba cõi không còn ái
Tỳ Kheo đã dứt ái
Vắng lặng vào Niết Bàn.
Nếu diệt được ái kia: Ái là căn bệnh khiến mọi thứ khổ nhóm họp lại. Nếu diệt được ái dục thì Trời, người đều khen ngợi.
Cho nên nói: Nếu diệt được ái kia.
Ba cõi không còn ái: Đã dứt hết ái, dứt hết nhiệt, dứt hết các não, dứt hết buồn lo. Ba cõi là cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.
Cho nên nói: Ba cõi không còn ái.
Tỳ Kheo đã dứt ái: Các chúng sinh bị ái dục ràng rịt, bó buộc, lôi kéo, Tỳ Kheo phá mọi kết sử nên gọi là Tỳ Kheo. Người đắp y, ôm bát cũng gọi là Tỳ Kheo.
Cho nên nói: Tỳ Kheo đã dứt ái.
Vắng lặng vào Niết Bàn: Niết Bàn không có nơi chốn. Không có cảm thọ, không còn tư tưởng dính mắc, nên gọi là vào Niết Bàn.
Niết Bàn không có hình bóng kết sử, cũng không có hình bóng của sự tái sinh.
Cho nên nói:
Vắng lặng vào Niết Bàn.
Vì ái cam chịu khổ
Tham dục đắm thế gian
Sầu lo ngày đêm dài
Như cỏ dại bò lan.
Vì ái cam chịu khổ: Các chúng sinh tâm thú hướng về đâu thì không thể lìa bỏ, có nhiều thứ họa hại, không thứ gì không đắm nhiễm.
Cho nên nói: Vì ái cam chịu khổ.
Tham dục đắm thế gian: Khó bỏ khó lìa, ôm ấp mãi, không quên thế gian. Năm ấm cũng gọi là thế gian. Cảm thọ lẫy lừng, cũng gọi là thế gian.
Cho nên nói: Tham dục đắm thế gian.
Sầu lo ngày đêm dài: Thường có lo buồn tai họa, có phiền não nóng bức, có bệnh tật, ở đây nêu thí dụ để qua đó, người trí nhờ thí dụ mà tự hiểu.
Như cỏ dại bò lan:
Ngày càng bò lan ra như cỏ dại.
Người bị ân ái lừa
Không thể bỏ tình dục
Nhiều ái dục, buồn lo
Như nước đầy mặt ao.
Người bị ân ái lừa: Ngục tù ân ái cứng chắc, nhiều kiếp không hư hoại, nó tiềm ẩn trong tâm thức không bao giờ lìa bỏ. Vì ân ái này nên không thể vượt thứ lớp chứng quả. Hễ đắm nhiễm ân ái thì không thể trở lại, không thể chế ngự, giữ gìn hay tiêu diệt nó được.
Cho nên nói: Người bị ân ái lừa.
Nhiều ái dục buồn lo: Do ân ái này mà các khổ não them nhiều, thấm sâu vào xương tủy. Như dòng nước chảy đổ trút xuống ao, cũng như hoa sen không thấm nước. Việc này cũng như vậy, ân ái trói buộc, tâm ôm ấp mãi.
Lấy nước giải thoát để gột sạch tâm ái kia thì khốn thay, tâm ấy không chịu dính nước.
Cho nên nói:
Như nước đầy mặt ao.
Các hiền, giờ ta nói:
Cả chúng hội đều nghe
Cùng nhổ bỏ gốc ái
Như chọn vị tế tân
Đã nhổ bỏ gốc ái
Còn gì mà lo sợ.
Các hiền, giờ ta nói: Ta chỉ cho Như Lai, là Bậc nhất thiết trí, đầy đủ ba đạt, sáu thông, các tướng tốt, phân biệt rõ các pháp. Các hiền là chỉ cho đại chúng, các vị này đã đầy đủ các pháp mà các Bậc Thánh Hiền đã thực hành. Bậc nhân hiền này đã ra khỏi ba cõi, những gì cần làm đã làm xong.
Cho nên nói: Các Hiền!
Cả chúng hội đều nghe: Chúng hội chỉ cho hàng Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, đều nhóm họp một nơi suy nghĩ cội gốc các pháp. Những điều mà tâm mong mỏi đều được như nguyện.
Cho nên nói: Chúng hội đều nghe.
Cùng nhổ bỏ gốc ái: Vô minh là gì?
Như đã nói, là những ai hướng về năm đường, từ đời này đến đời sau do vô minh là cội gốc, đều do tham dục sinh ra.
Lại có chỗ nói: Trước có tâm ngu si sau đó mới sinh ái nhiễm, đắm trước.
Cho nên nói: Cùng nhổ bỏ gốc ái.
Như chọn vị tế tân: Sở dĩ nói chọn vị tế tân là có hai nguyên nhân: Một là nó chữa bệnh, hai là để mua bán. Suy nghĩ chọn kỹ thứ tốt mới lấy để trị bệnh và bán có lời nhiều. Người tu hành cũng như vậy. Cội rễ ái dục rất cứng chắc ăn sâu, phải dùng trí tuệ để phân biệt, tu hành phải làm. Chúng sinh liền được giáo hóa, nhờ đó mà thành tựu. Nhổ hết gốc rễ ái dục thì chứng quả A La Hán.
Cho nên nói: Như chọn vị Tế tân.
Đã nhổ bỏ gốc ái: Gốc ái chỉ cho các kết sử khác ngoài cành lá vô minh, nên gọi là gốc ái.
Còn gì mà lo sợ: Hễ có lo là có sợ, nay không có lo thì còn sợ thứ gì?
Lo buồn chỉ có ở cõi dục mà không có ở cõi sắc và vô sắc?
Vì sao?
Trả lời: Vì tánh chất hai cõi kia là không có lo buồn.
Sở dĩ sinh ra lo buồn là vì có cha mẹ, đất nước, thành quách, vợ con, tôi tớ, kẻ ăn người ở, thóc lúa, ruộng nhà, tiền của, các gia nghiệp này đều là đầu mối của lo buồn, nếu hoàn toàn không có các thứ ấy thì không có lo buồn.
Cho nên nói:
Nhổ bỏ gốc ái.
Có ái nên có chết
Gây ra nhiều thân thuộc
Bước trên đường lo dài
Khổ ái thường mang ách.
Vì người tu hành
Không gần người tục
Trước chặt gốc ái
Đừng cho rễ bám
Chớ như cắt cỏ
Làm ái mọc lại.
Có ái nên có chết: Như chúng sinh chưa dứt bỏ ái dục, còn đầy đủ các kết sử, ái dục nằm trong ấy.
Cho nên nói: Hễ chúng sinh nào tham cầu không thỏa mãn thì đều do tâm ái. Muốn sinh trong ba cõi cũng bởi tâm ái, ý tham đắm vợ con, tài sản đều do tâm ái.
Cho nên nói: Còn ái nên có chết, gây ra nhiều thân thuộc.
Bước trên đường lo dài: Những gì đã qua không thể tìm lại.
Các chúng sinh trôi lăn trong năm đường: Sinh tử, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chết nơi này sinh nơi khác, thân nương bốn đại bị ái kết ràng buộc.
Cho nên nói: Bước trên đường lo dài.
Khổ ái thường mang ách: Chịu thân hình từ bào thai này sang bào thai khác mãi mãi như vậy. Sống trong bào thai nóng bức, xung quanh là phân dơ bẩn hôi thối bất tịnh, thế mà cứ chui vào bào thai mãi, không hề biết nhàm chán, không hề biết hổ thẹn.
Cho nên nói: Phải dùng cách thức khôn khéo tu đạo, không gần người thế tục.
Thường thường nghĩa là đời đời qua lại không dứt, sinh ở nơi này, chết ở nơi khác. Đời này nghĩa là thân hiện tại này, đời kia là sinh vào đường khác. Đời này là thân người này, đời kia là năm đường.
Cho nên nói: Trước chặt gốc ái, đừng cho rễ bám.
Thường ở trong năm đường, sinh vào năm đường lại có nặng nhẹ. Có phước là nhẹ, không phước là nặng. Dù có nặng, nhẹ nhưng không có gì hơn là có đạo. Trung đạo vô vi thì không có nặng nhẹ, không còn sinh hay diệt, dính mắc hay cắt đứt, không còn ai mong trở lại con đường dơ uế kia nữa.
Chớ như cắt cỏ, vì là cắt ngọn, nên cắt xong chúng lại mọc lên mạnh mẽ mãi mãi không chết.
Vô dục, không lo sợ
Thảnh thơi không buồn rầu
Dứt dục, kết sử hết
Ra hẳn vực luân hồi.
Vô dục, không lo sợ: Bậc Thánh đã thoát khỏi ái dục nên không còn sợ sệt, lo buồn, được thảnh thơi.
Cho nên nói: Vô dục, không lo sợ.
Thảnh thơi không buồn rầu: Khi đã dứt hẳn các ái dục, không còn dư sót, nếu có chúng sinh nào không thể lìa bỏ ái dục thì giống như dòng sông chảy miệt mài ra biển không kể ngày đêm.
Cho nên nói: Thảnh thơi không buồn rầu. Vì đã dập tắt hết ái dục nên danh cũng mất, thể cũng hết, không còn gốc rễ.
Dục dứt trừ, kết sử mở, vĩnh viễn khỏi vực luân hồi, không còn sinh trở lại chốn phiền muộn nữa, vừa là hành động không tạo tác, vừa là chẳng phải hành động, không tạo tác.
Cho nên nói:
Ra hẳn vực luân hồi.
Các Trời và loài người
Nương vào ái mà sống
Ái đâu, kết sử đó
Thời gian trôi không ngừng
Ngày qua lại sinh lo
Vào ngục mới tự biết.
Các Trời và loài người: Vì sao lại nói Trời và người?
Bởi cả hai đều bị ái dục sai khiến. Nếu sinh làm Trời thì được cung nữ hầu hạ, vui thú với nhau, đến nỗi ngó phía Đông thì quên phía Tây. Còn nếu sinh làm người thì đắm nhiễm nhiều thứ. Lo nuôi vợ con long không lìa bỏ. Nếu đọa vào địa ngục, chịu các khổ não thì không còn tâm ái. Còn ngạ quỷ, súc sanh tuy có tâm ái nhưng nhỏ nhặt, không đáng nói. Chỉ có Trời và người là tâm ái nặng nhất.
Cho nên nói: Các Trời và loài người.
Nương vào ái mà sống: Chúng sinh nương tựa vào ái dục mà sống ô nhiễm, tức cùng sống chung với ái.
Cho nên nói: Nương vào ái mà sống.
Ái đâu, kết sử đó: Như có người muốn qua sông biển, nếu người dẫn đường đúng thì kẻ đi theo cũng đúng, ái cũng như vậy, nếu đọa vào ba đường ác thì kết sử cũng đi theo.
Cho nên nói: Ái đâu, kết sử đó.
Thời gian trôi không ngừng: Trong khoảng một thời gian sinh vào chốn nhân gian, nơi Kinh Đô đất đai bằng phẳng thì gieo được nhiều căn lành, không có núi sông, vách đá, sản sinh ra nhiều vật quý lạ, có lòng tin vững chắc với Phật Pháp, có tâm suy nghĩ, xót thương mọi loài, gieo trồng cội gốc công đức, Chư Phật ra đời làm hưng thịnh đất nước ấy. Dù sống nơi thành thị cũng trở thành quá khứ, không thể sống mãi được.
Cho nên nói: Thời gian trôi không dừng.
Ngày qua lại sinh lo: Đó là nơi biên giới, sinh sau thời Phật, ở vào tám nơi không yên ổn. Truy tìm gốc ngọn, tự thẹn, không được sinh vào nơi có Phật Pháp lưu hành, bèn sinh ra lo buồn khổ não, đấm ngực kêu la khi nhớ đến những việc trôi qua.
Cho nên nói: Ngày qua lại sinh lo.
Vào ngục mới tự biết: Than ôi! Già khổ, khi còn ở nhân gian, chúng ta nghe nói người học đạo tu thiện được phước, làm ác thì đọa vào địa ngục. Kẻ quen sống với tâm ái thì tự gieo rắc bệnh khổ trong ba cõi.
Các vị Sa Môn cũng nói: Ai giữ năm giới cấm, tu mười điều lành sẽ được sinh lên Cõi Trời hay sinh vào cõi người, chúng ta ngu si, không nghe theo lời dạy ấy, nên ngày nay phải vào địa ngục chịu các khổ não, nào núi dao rừng kiếm, xe lửa lò than, tất cả đều do tâm ái dục mà ra.
Cho nên nói:
Vào ngục mới tự biết.
Theo dòng ái không dừng
Thân bị lưới dục trùm
Cành nhánh thêm đói khát
Càng chịu khổ thêm nhiều.
Theo dòng ái không dừng: Thế nào là theo?
Nghĩa là địa ngục, ngạ quỷ, người, Trời đều theo với ái. Đời sau, khi có thân thì ái đã vào, cũng duyên theo cảnh giới mà muôn pháp từ đó sinh ra.
Cho nên gọi là theo. Dòng ái trôi giống như dòng sông chảy về biển. Dòng ái trôi cũng như vậy. Nó làm chảy ra sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Cho nên nói dòng ái. Không dừng thì cũng như hạt lúa giống, khi gieo xuống đất thì nó biến đổi theo thời tiết, tưới bón, nảy mầm, lớn lên. Hạt giống ái cũng như vậy. Nó đầy khắp thân người, theo thời gian chuyển biến tăng thêm các bất thiện căn.
Ái dục không trụ trong ba cõi mà trôi lăn trong tứ sinh, bôn ba trong năm đường. Cho nên nói là không dừng. Thân này ấm căn là thân năm ấm lẫy lừng, sâu chắc khó lay động. Như nói thân này là gốc của si mê, vô thường, khổ, không, vô ngã cũng chính là nó cho nên gọi là ấm căn.
Còn dục thì có hai thứ: Trên thì trên tận mé không, dưới thì khắp cả các cảnh giới trong mười phương các cõi nơi nào cũng có dục. Loại thứ hai là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh duyên với dục, không thể dứt bỏ, nên gọi là dục.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Xuất Sanh Bồ đề Tâm - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Năm Phật đảnh Tam Muội đà La Ni - Phẩm Hai - Phẩm Nhập Tam Ma địa Gia Trì Hiển đức
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Vô Tham Pháp Cú
Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Vấn Bồ Tát Thập Trụ Trừ Cấu đoạn Kết - Phẩm Ba - Phẩm Quán Không
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Bảy - Pháp Hội Bảo Kế Bồ Tát - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật - Phần Ba Mươi Mốt - Tri Kiến Bất Sanh
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Năm Mươi Sáu - Phẩm Tượng Hộ