Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Năm - Phẩm Niệm - Tập Một
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM NĂM
PHẨM NIỆM
TẬP MỘT
Nghĩ mừng sinh lo
Nghĩ mừng sinh sợ
Không có nghĩ mừng
Còn lo, sợ gì?
Thuở ấy, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ. Lúc ấy, có một Phạm Chí ngoại đạo, vốn ít con cái, chỉ có duy nhất một đứa con trai, nhưng rồi thằng bé chợt chết đi.
Đêm ngày thương nhớ con, Phạm Chí không còn thiết gì đến ăn uống, cởi hết áo quần, kêu gào thảm thiết nơi gò mả, thường nhớ mãi những nơi trước đây con mình đi đứng tới lui. Thế rồi, vị Phạm Chí ra khỏi thành Xá Vệ, tới Tinh Xá Kỳ Hoàn, đến chỗ Phật ngự. Phạm Chí thăm hỏi Đức Thế Tôn và ngồi sang một bên.
Đức Phật hỏi vị Phạm Chí: Hôm nay Phạm Chí các căn bất định, tâm ý bấn loạn, vậy có việc gì thế?
Vị Phạm Chí bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, tôi có một đứa con, nó đã chết bỏ tôi, tôi muốn chết theo nó mà không được, nên đành sống đây thôi, vì thế các căn làm sao được yên ổn, tâm ý không bấn loạn cho được?
Tôi đã chăm nom, nuôi dạy nó từ bé, mong nó sớm lớn khôn. Thế mà nay nó đã chết, khiến lòng tôi buồn khổ, không thể khuây khỏa nổi. Từ lúc nó chết đến giờ, đêm ngày thương nhớ, tôi không còn thiết gì đến ăn uống, nghỉ ngơi, cởi hết quần áo, kêu gào khóc than bên gò mả, nhớ mãi những nơi trước kia con tôi đi đứng, tới lui.
Đức Thế Tôn bảo: Thế đó, Phạm Chí, đúng như lời ông kể, tất cả buồn rầu khổ não đều phát sinh từ ân ái.
Nghe vậy, vị Phạm Chí bạch Phật: Không phải như lời Cù Đàm nói, người đời ân ái sinh tâm vui mừng.
Bấy giờ vị Phạm Chí nghe Đức Phật nói không đồng ý, liền đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi không ngoảnh đầu lại.
Trên đường về, đi ngang qua xóm cờ bạc, vị Phạm Chí thấy hai người đang ngồi đánh bài vui chơi, ông liền nghĩ: Con người ta sống ở đời này, tài cao, trí tuệ, hiểu biết, những việc xưa nay, ngay cả những việc sâu kín thì không ai hơn nổi đám cờ bạc này.
Vậy bây giờ ta hãy hỏi hai ông này về điều mà Sa Môn Cù Đàm nói coi họ nghĩ sao?
Nghĩ rồi, Phạm Chí đem lời Đức Phật dạy hỏi hai người cờ bạc này.
Hai người này bảo: Đúng thế, đúng thế! Đúng như lời ông nói, ân ái và sum họp đều sinh vui mừng.
Nghe lời hai ông này hợp với ý mình, Phạm Chí hớn hở liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, tiếp tục ra về.
Cuộc đối thoại trên lần lượt được kể lại, thấu đến tai Vua Ba Tư Nặc.
Vua Ba Tư Nặc bảo phu nhân Mạt Lợi: Khanh có nghe Sa Môn Cù Đàm nói rằng tất cả mọi buồn rầu khổ não đều phát sinh từ ân ái, hội họp, hay không?
Phu nhân thưa: Đúng như lời Vua vừa hỏi.
Vua liền bảo phu nhân: Khanh là đệ tử của Cù Đàm, Cù Đàm là thầy của khanh, thì khanh phải nói rằng tất cả mọi buồn rầu khổ não đều phát sinh từ lòng ân ái và hội họp thôi!
Này phu nhân, nên biết rằng: Ân ái và hội họp đều sinh vui sướng, trong tâm sung sướng, cùng nhau hưởng lạc thú, vì sao lại nói rằng phát sinh ra buồn rầu khổ não?
Lúc ấy phu nhân bước đến trước mặt Vua mà thưa: Cúi xin Đại Vương hãy nghe những lời mọn thần thiếp trình bày đây, nếu Vua ưng nghe thì thiếp mới dám thưa.
Vua bảo phu nhân: Phu nhân cứ nói.
Phu Nhân bèn thưa với Vua: Phải chăng lúc nào Đại Vương cũng nhớ nghĩ đến vương nữ Bà Kỳ Lợi, cả đến đại tướng quân Lưu Ly và cả đến phu nhân Vũ Kiều Sát lợi phải chăng?
Vua bảo phu nhân: Ta vô cùng yêu thương nhớ nghĩ đến vương nữ Bà Kỳ, đại tướng quân Lưu Ly và phu nhân Vũ Kiều Sát Lợi. Tình yêu thương ấy không xen hở phút giây nào.
Phu Nhân thưa với Vua: Đại Vương nghĩ sao nếu những người ấy biến đổi và chết đi thì Đại Vương có buồn sầu khổ não chăng?
Vua bảo phu nhân: Nếu những người ấy mà biến đổi và chết đi thì trẫm sẽ buồn rầu đau khổ, không thể nói được.
Phu Nhân thưa với Vua: Vua có thật yêu thương thiếp chăng?
Vua bảo phu nhân: Ta vô cùng yêu thương khanh.
Phu Nhân thưa: Nếu thiếp biến đổi và chết đi thì Vua có buồn rầu không?
Vua bảo phu nhân: Ta vô cùng buồn khổ, không còn thiết gì đến ăn uống, ngủ nghỉ, tâm thần rối loạn, hoặc là trở thành điên dại.
Phu Nhân hỏi: Thế nào, Vua có thương nghĩ đến người dân trong nước Ca Thi Câu Tát La này chăng?
Vua bảo phu nhân: Ta rất thương mến họ.
Vì sao?
Vì hôm nay ta đang vui hưởng năm thứ dục lạc sung sướng như vậy là đều do mọi người dân trong nước Câu Tát La mang lại.
Phu Nhân hỏi: Đại Vương nghĩ sao, nếu như mọi người dân trong đất nước Câu Tát La này biến đổi và chết đi thì Đại Vương có buồn sầu khổ não chăng?
Vua bảo phu nhân: Nếu không có muôn dân kia thì không có thân ta đây, như thế thì làm sao không sầu khổ cho được chứ?
Phu Nhân Mạt Lợi liền nói: Như vậy, hôm nay Đại Vương đã tự thấy rõ cái khổ của sự yêu thương mà phải chia lìa, cái khổ vì ghét mà phải gặp nhau.
Những điều mà Đức Như Lai nói chính là ý nghĩa ấy.
Lúc bấy giờ Vua Ba Tư Nặc tâm ý được mở tỏ, bèn bảo phu nhân: Từ nay trở đi, ta là đệ tử của Cù Đàm và Ngài là thầy của ta.
Hôm nay ta quy mạng Sa Môn Cù Đàm, quy mạng pháp, quy mạng Tỳ Kheo Tăng, trọn đời không còn sát sinh nữa.
Thế nên lời kệ trên nói:
Nghĩ mừng sinh lo
Nghĩ mừng sinh sợ
Không có nghĩ mừng
Còn chi lo, sợ?
Nghĩ mừng sinh lo: Như có người bị bệnh, người nuôi bệnh thường sinh lo lắng, sợ rằng bệnh không qua khỏi, hoặc người muốn đến nơi khác, hoặc làm người sứ cho Vua, hoặc xuống biển tìm châu báu thì người ở nhà lo lắng sợ rằng người ra đi không được sống còn.
Người nhà can ngăn rằng gia đình ta có của cải thừa thải, đủ sống một đời, tại sao lại phải đi nơi xa xôi gian nan vất vả để mong tìm lấy của báu làm gì.
Nếu ông ra đi thì cả hai phía đều lo lắng, nếu người đi được yên ổn thì người ở nhà lo lắng, nếu người ở nhà yên ổn thì cũng lo lắng cho người đi, cho nên lời kệ nói: Nghĩ mừng sinh ra sợ.
Không có nghĩ mừng, còn chi lo sợ là sao?
Nếu không có nghĩ mừng thì sẽ dứt bỏ được ái dục.
Vì sao?
Vì gốc ái ở cõi dục này rất cứng chắc, khó có thể nhổ bỏ nổi.
Thế nên lời kệ nói: Không có nghĩ mừng, còn chi lo sợ. Có lo thì có sợ, không lo thì còn sợ điều gì nữa. Vì nếu hết lo thì cũng hết sợ, năm thứ diệt, mười tám thứ diệt là ý nghĩa của câu trên.
Nghĩ mừng sinh lo, nghĩ mừng sinh sợ, nay đã hết nghĩ mừng thì dứt bỏ mê lầm.
Thuở ấy, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ. Lúc ấy, có một Phạm Chí đang cấy một thửa ruộng lớn, chỉ có một đứa con ở đó giữ ruộng. Rồi Trời trút một một trận mưa đá làm hư hại hết mạ lúa và giết chết cả đứa bé.
Lúc bấy giờ, người Phạm Chí buồn khổ vô hạn, ông chạy rong ruổi khắp thành thị, trần truồng, không giày dép, không kể sang hèn gì nữa, lần hồi, ông đến Tinh Xá Kỳ Hoàn. Nhưng vị Phạm Chí này đáng được giáo hóa, Như Lai xét biết điều ấy, Ngài liền biến đất ngoài cửa Tinh Xá thành ruộng lúa, rồi lại biến ra một người giống y như con ông.
Thấy vậy, tâm Phạm Chí liền được khai ngộ: Ruộng lúa và con ta hiện vẫn còn đây. Thế mà ta luống tự khổ nhọc, vất vả đó đây. Tâm trí ông ổn định trở lại, không còn điên cuồng, ngây dại nữa. Ông liền đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi qua một bên.
Phật thấy ông đã ngồi yên, cũng như Chư Phật Thế Tôn trước kia thường nói pháp về khổ, tập, diệt, đạo, bốn đế chân như, thì giờ đây Đức Phật cũng giảng nói mỗi thứ cho Phạm Chí nghe, cả đến thuận nghịch tam muội, không, vô tướng, vô nguyện rạch ròi mỗi thứ cho ông nghe, khiến cho tâm Phạm Chí hoát nhiên đại ngộ, các bụi nhơ đều bị quét sạch, được mắt pháp thanh tịnh.
Pháp mà Phạm Chí này đã được, đã thành tựu là pháp không luống dối, là pháp không còn ngờ vực, là pháp trong chúng Như Lai không còn sợ hãi. Ông liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi làm lễ dưới chân Như Lai.
Từ nay trở đi thọ ba tự quy y, quy mạng Phật, quy mạng Pháp, quy mạng Tỳ Kheo Tăng, trọn đời không còn sát sinh.
Thế nên lời kệ nói: Không còn nghĩ vui, dứt tâm mê lầm, tâm ý lại chánh đều do có sức Phật. Nếu không gặp Phật, mọi sự không thành.
Người ta mang sầu lo
Đời vô số mối khổ
Đều do nghĩ ái ân
Không nghĩ thì không sợ.
Người ta mang sầu lo: Tất cả chúng sinh đêm ngày mang buồn lo, nhìn nhau than khóc.
Đôi khi mất hồn đưa đến ngây dại, tất cả đều do ân ái, luyến mến gây nên, cho nên lời kệ nói: Người ta mang sầu lo.
Đời vô số mối khổ: Áo không đủ che thân, cơm không đủ no bụng, da mặt vàng mét, mình mẩy dơ bẩn, bà con xa lìa, nghề nghiệp làm ăn sinh sống đều bỏ phế, đều do ân ái gây nên tai họa này. Con người sống ở đời gặp các khổ não cũng do không thể dứt bỏ ân ái.
Cho nên lời kệ nói: Đời vô số mối khổ.
Đều do nghĩ ái ân: Sinh tử lâu dài, gốc khổ khó tìm. Người ngu sống trong ấy không tự hay biết.
Con người luyến mến nhau nào phải chỉ một loại, nào nghĩ đến cha mẹ, anh em, thân tộc, người quen biết, nghĩ đến ai chết ai còn rồi, kêu than, khóc lóc, cho nên lời kệ nói: Đều do nghĩ ái ân.
Không nghĩ thì không sợ: Khi người ta bỏ được sự tưởng nhớ không còn luyến mến thì không còn lo buồn khổ não. Có nhà thì lo nhà, có của thì lo của. Có xe cộ yên mã thì lo xe cộ yên mã. Ai không có xe cộ yên mã thì không có gì bận bịu.
Không còn sự tưởng nhớ là sao?
Ấy là người đã hết ái dục, dứt hẳn không còn sót.
Thế nào là người dứt bỏ ái dục?
Người chứng quả A Na Hàm không do hai đường. Đó gọi là người đã dứt bỏ ái dục. Vì không còn tưởng nhớ, vĩnh viễn rốt ráo, không còn trở lại cõi dục. Phàm phu ái chưa hết nên dù có được năm thứ thần thông đi nữa vẫn chưa ra khỏi ba cõi. Nếu mất thần thông thì giận dữ nổi lên chỉ trong giây lát lại rơi vào đường ác.
Rồi phải trải qua nhiều kiếp mới được lại thân người, cho nên lời kệ nói:
Không nghĩ thì không sợ.
Cho nên không sinh nghĩ
Nếu nghĩ, thì ác lụy
Người không còn ràng buộc,
Không nghĩ, chẳng không nghĩ.
Cho nên không sinh nghĩ: Con người sống ở đời bởi nhớ nghĩ mà sinh ra ân ái, do nhớ nghĩ mà có đổi thay. Các thứ buồn rầu khổ não đều bởi nhớ nghĩ mà sinh ra.
Cho nên nói: Không sinh nghĩ.
Nếu nghĩ, thì ác lụy là thế nào?
Như ở đời có người điên, mang thân bệnh khổ, rồi vì bệnh mà giết năm loại chúng sinh, hoặc giết trăm loại chúng sinh để cầu mong khỏi bệnh, cho là trị liệu đúng, nhưng không biết rằng bệnh là do vô số tội. Hoặc có khi vì người bệnh mà giết súc vật cúng tế hy vọng cứu được mạng sống.
Dù cho đem nhốt người bệnh vào trong cái lồng được bao bọc bởi trăm lớp sắt, mỗi lớp đều được bảo vệ tuyệt đối an toàn, cùng nhau tin là không cho thần chết viết giấy khai tử, nhưng sự thật làm vậy không đúng. Tất cả đều do ân ái gây ra tai biến ấy.
Hoặc có người là kẻ quen biết hay người thân của mình xa cách quá lâu nay bỗng được trở về nhà, vì nghĩ đến họ, mà giết hại thú vật nhiều không tính kể, chúc mừng lẫn nhau, ấy là cội gốc chất chứa tai ương.
Thế nên lời kệ nói: Nếu nghĩ thì ác lụy.
Người không còn ràng buộc: Ràng buộc là thân bị trói, tâm không được thanh thản.
Như Khế Kinh nói: Khi chưa hết cái tâm ái đắm nhiễm thì con người vẫn sẽ sinh vào nơi nào đó khi có nhân có duyên, hoặc chết nơi kia sinh nơi đây.
Có nhân có duyên thì bị trói, bị cột, bị thắt. Như người hiểu biết và đứa học trò của người hiểu biết, nếu làm một tràng hoa, thì trước hết họ lấy sợi dây dài làm mối chính, rồi trên đó họ mới kết tràng hoa với các bông hoa nối dính nhau mà thành tràng hoa.
Cái tâm ái nhiễm chưa dứt hết cũng giống như thế. Có duyên có nhân thì khi chết nơi kia sẽ sinh nơi đây. Có nhân có duyên mà người được chứng quả thì không bị nạn trói buộc như vậy.
Cho nên nói: Người không còn ràng buộc, không nghĩ, chẳng không nghĩ.
Vì đã thoát khỏi cái nóng bức của nhớ nghĩ nên không còn ái ân, được cái vui vô vi, dạo chơi trong nghĩa bậc nhất, cho nên lời kệ nói:
Không nghĩ, chẳng không nghĩ.
Suy nghĩ tìm phương cách
Phi nghĩa không đặt quyền
Tuệ tạm sinh nghĩa lớn
Tự đến bậc đệ nhất.
Suy nghĩ tìm phương cách: Muốn được tu tập trí tuệ vô thượng phân biệt nghĩa sâu sắc, không hề lừa dối. Khi đạt được trí tuệ ấy thì không bao giờ còn bị rối loạn.
Cho nên nói: Suy nghĩ tìm phương cách.
Phi nghĩa không đặt quyền là thế nào?
Phi nghĩa cũng không tương ưng với nghĩa sâu này, làm cho người rơi vào đường ác. Nó không làm căn lành lớn mạnh lên được, nên bị những người hiểu biết chê cười. Nếu sửa đổi lỗi lầm đã qua để được phước vui ở tương lai, thì được Trời, người khen ngợi. Những lỗi lầm cũ được tiêu trừ, ngay lúc ấy cũng đủ trồng được căn lành cho đời sau.
Cho nên nói: Phi nghĩa không đặt quyền.
Tuệ tạm sinh nghĩa lớn là sao?
Nương theo bậc thiện tri thức mà dạy người chánh kiến, dứt bỏ tà nghiệp, khiến họ không còn tu tập theo dị thuật ngoại đạo, mà chỉ vâng theo chánh kiến trên. Chữ nghĩa, nghĩa là trí tuệ vô lậu, nghĩa là thiền định, nghĩa là quán chiếu.
Cho nên nói: Tuệ tạm sinh nghĩa lớn.
Tự đến bậc đệ nhất: Chư Phật, Thế Tôn là người giữ gìn giới cấm, không buông lung, giữ tâm vững chắc, không rơi vào tà nghiệp, thường dạy chúng sinh phải giữ gìn giới cấm, luôn giữ ba nghiệp, nên nói:
Tự đến bậc đệ nhất.
Đừng sống với niệm ái
Không sống với bất niệm
Niệm ái không thấy khổ
Không nghĩ ái, lo, khổ
Mà sinh ra buồn rầu
Diệt hết cội gốc người.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Sakuludayi - Phần Tám - Tứ Thần Túc
Phật Thuyết Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công đức - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Nhật Xuất
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ma Già
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai Mươi - Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Mười Tám - Phẩm đạt đến Vô Lượng - Phần Bốn