Phật Thuyết Kinh Bổn Sư - Phẩm Hai - Phẩm Pháp Hai - Phần Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH BỔN SỰ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Huyền Trang, Đời Đường  

PHẨM HAI

PHẨM PHÁP HAI  

PHẦN SÁU  

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Hai pháp hằng nương nhau

Đó là nghiệp và thọ

Nghiệp có thọ cùng hữu

Nghiệp không thọ cũng không

Thọ nghiệp chưa mất đi

Hữu tình chưa chết hẳn

Thọ nghiệp nếu tận diệt

Hàm thức chết chẳng ghi.

Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Có hai loại hành.

Trong chúng sanh ở thế gian đều cùng tạo tác.

Thế nào gọi là hai?

Một là hay cảm thấy việc thọ mạng ngắn ngủi.

Hai là hay cảm thấy thọ mạng dài lâu.

Thế nào gọi là cảm thấy thọ mạng ngắn ngủi?

Nghĩa là có một loại Bổ Đặc Già La chúng sanh thường ưa sát sanh, vì tánh hung bạo, làm tay dính máu, tổn hại sanh mạng, chẳng chút xấu hổ, chẳng có lòng thương nơi các chúng sanh ấy nên thường làm việc sát hại, cho đến giết chết những con kiến nhỏ.

Điều ấy có tên là cảm thấy đời sống thọ mạng ngắn ngủi.

Thế nào gọi là cảm thấy thọ mạng dài lâu?

Nghĩa là có một loại Bồ Đặc Già La chúng sanh xa rời sự sát sanh, bỏ khí cụ giết hại, xấu hổ và có lòng từ mẫn nơi những chúng sanh thường chẳng sát hại cho đến chẳng hại một con kiến nhỏ, cho nên có tên là hay cảm thấy thọ mệnh dài lâu.

Như vậy có tên là hai loại việc làm. Thế gian các chúng sanh tất cả đều tạo tác.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Thế gian loài hữu tình

Lược nói có hai hành

Do hai hành sai biệt

Cảm thọ có dài ngắn

Nghĩa thường ưa sát sanh

Hung bạo huyết dính tay

Chẳng xấu không từ mẫn

Cảm sống ngắn chẳng ghi

Thường ưa lìa sát sanh

Thí bỏ những đồ sát

Có xấu có lòng thương

Cảm sống lâu chẳng ghi.

Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Do hai hành tương ưng mà giữ tâm tướng.

Thế nào là hai?

Một là duyên lành tướng.

Hai là tác ý hành tướng.

Cho nên tất cả lấy quá khứ hiện tại và tương lai làm tướng của tâm. Tất cả đều do hai loại hành tướng này.

Này các Tỳ Kheo! Do hai loại hành tướng này mà nên chánh cần, làm tốt cho tướng của tâm. Tâm đã thâu rồi, nên tác ý làm việc thuận, sau khi tác ý thuận rồi nên quan sát giỏi. Sau khi quan sát tốt rồi nên hay ở yên.

Khi ở yên rồi liền cùng địa giới, siêng năng tu tập, chẳng tính chẳng hại cùng với thủy giới, hỏa giới, phong giới siêng năng tu tập vô lượng vô tổn.

Tỳ Kheo nên biết! Dụ như địa giới nếu ở trong ấy an trí phẫn uế, nước tiểu, máu mủ những loại như vậy đồ tốt hoặc xấu đều để ở chung ở trong đất ấy, chẳng có phân biệt cao thấp, xấu dơ.

Như thế tâm này ở vào với đất ấy.

Nên phải siêng năng tu tập vô lượng vô tổn tức đồng đất đai, siêng năng tu tập vô lượng vô tổn chỉ gặp những loại chúng duyên sai biệt, mà tâm thì chẳng phân biệt tính toán, chung quy do điều sai biệt làm nhân duyên mà tâm này có cao thấp.

Lại như nơi nước, nơi lửa, nơi gió, nếu ở trong ấy mà an trí phẫn uế, nước tiểu, hôi nồng mùi máu như thế nhiều loại sạch và chẳng sạch để vào trong ấy, mà nơi nước.

Nơi lửa, nơi gió chẳng có chống trái, chẳng hiểu cao thấp, như vậy tâm này cũng đồng thủy giới, hỏa giới, phong giới, phải siêng tu tập, vô lượng vô tổn, tức đồng thủy giới, hỏa giới.

Phong giới, siêng năng tu tập, vô lượng, vô tổn, chỉ gặp những loại giống, khác nhau làm duyên mà tâm thì không phân biệt tính toán, chung lại chẳng do sự sai biệt này làm nhân duyên mà tâm này cao thấp.

Do sự cố định này mà có ý thức của thân cho đến tất cả duyên tướng bên trong, chấp ta, chấp thuộc về ta, thấy nghe theo mắt, tốt còn, tốt mất nương vào hai loại, tâm này cao cả, lìa tất cả tướng, tịch tĩnh an lạc, được thuận giải thoát.

Cho nên tất cả tâm thuận giải thoát, huệ thuận giải thoát đều ở tâm này. Chấp của ta và chấp thuộc về ta, thấy ghi tùy mắt, thuận cùng chẳng thuận nương vào hai loại.

Tâm này siêu việt, lìa tất cả tướng, tịch tịnh an ổn thuận giải thoát, tâm này có được, lợi ích xưng tán, tâm này chẳng phải chỉ gặp điều khổ, tâm này chẳng cảm cho nên vượt lên trên tám pháp của thế gian. Tâm này bình đẳng, dụ như đất, lửa, nước, gió trong thế gian. Thế gian tám pháp chẳng hay bị nhiễm.

Lúc ấy Đức Thế Tôn vào sâu nghĩa này mà nói kệ rằng:

Khó điều phục động tâm

Xa đi chẳng có hai

Hay siêng năng làm tướng

Đó là sáng thế gian

Lấy tâm tướng lành rồi

Lại lấy ý quan sát

Chánh niệm ở tâm này

Khuyên tu cùng bốn giới

Như vậy chánh ở yên

Hay cởi bỏ các dục

Vì đời ở tám pháp

Tâm lành tốt chẳng nhiệm

Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Có hai loại pháp là cùng lên xuống hòa hợp và ở trong đó vô khuyết, vô gián.

Thế nào gọi là hai?

Nghĩa là sanh và tử. Giống như ánh sáng của thế gian bị che khuất, chỉ có cùng lên hoặc xuống hay hòa hợp nhau.

Ở trong này vô khuyết, vô gián.

Khi ánh sáng xuất hiện thì bóng tối liền tan.

Khi bóng tối đến thì ánh sáng phải đi.

Sanh tử cũng vậy. Hay cùng lên xuống hòa hợp nhau.

Ở nơi này vô khuyến, vô gián.

Khi có sanh tức không có tử.

Khi có tử tức chẳng có sanh.

Lúc bây giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Như ánh sáng bóng tối

Cùng đến và cùng đi

Ở nơi hai pháp ấy

Chưa hề có gián đoạn

Sanh tử cũng như vậy

Cả hai cùng lên xuống

Ở nơi hai pháp ấy

Chưa từng có gián đoạn

Vô minh vốn là gốc

Nước ái cứ thấm dần

Sanh tử mãi liên tục

Chẳng mất cũng chẳng diệt.

Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Chết cũng có hai loại.

Thế nào là hai?

Một là chẳng điều phục được sự chết.

Hai là điều phục được sự chết.

Thế nào gọi là chẳng điều phục được sự chết?

Nghĩa là kẻ ngu, không hiểu biết sanh ra chưa thể thân cận với bậc chánh kiến hiền lành.

Chưa hề hiểu rõ pháp lành. Ở nơi pháp lành chưa thể tự điều phục.

Bị cái thấy chi phối như lấy sắc làm ta. Lấy sự bị có cho là ta.

Cái có ở nơi ta, ta ở nơi hình tướng ấy. Bị cái thấy chi phối nên thọ tức là ta.

Sự cảm thọ cũng cho là ta. Thọ ở nơi ta và ta ở nơi thọ.

Nó bị cái thấy chi phối. Tưởng tức là ta, tưởng xúc cũng là ta.

Tưởng ở nơi ta, ta ở nơi tưởng. Bị cái thấy chi phối.

Hành tức là ta, hành xúc ở nơi ta. Hành ở tại ta, ta ở tại hành.

Bị cái thấy chi phối nên nói thức tức là ta, thức xúc thuộc về ta.

Thức ở tại ta, ta ở tại thức. Mắt thấy sắc cũng vậy, chấp vào hình tướng, chấp lấy việc này và lấy đó làm nhân duyên.

Ở nơi nhãn căn chẳng thể chánh niệm phòng giữ mà trụ vào sự phát khởi của tham muốn.

Cho nên phát sanh rất nhiều việc ác và những pháp chẳng lành.

Tùy theo tâm này mà chảy xiết, chẳng thể dừng nghỉ.

Ở nơi nhãn căn chẳng thể giữ gìn.

Từ con mắt phóng túng nhìn ra các cảnh giới tham trước màu sắc và mùi vị, cột chặt vào tâm này, do sự tham lam này mà thọ khổ dài lâu, thọ khổ cực hình, thọ sự trói buộc khổ sở, tăng sự nóng giận nơi thân.

Tăng sự trống rỗng nơi ý, không biết bao nhiêu sự qua lại lên xuống sanh vào bàng sanh, ngạ quỉ, hoặc A tu la, người, Trời các thú v.v... thọ nhận những sự cực khổ, đều do con mắt chẳng điều phục được vậy.

Như vậy đó khi tai nghe âm thanh rồi, mũi ngửi mùi hương rồi, lưỡi nếm vị rồi, thân có sự va chạm rồi, ý đã hiểu pháp rồi, chấp giữ vào hình tướng ấy, rồi sự chấp thủ ấy cho là tốt. Đây là nhân duyên và tại nơi ý chẳng thể chánh niệm, giữ gìn để mà ở yên, phát sanh sự tham não.

Cho nên tạo ra không biết bao nhiêu là việc ác và pháp chẳng lành. Tùy theo tâm này mà lưu chuyển thấm vào chẳng thể chấm dứt.

Ở nơi ý căn này chẳng thể giữ gìn. Nên từ ý căn phóng túng đó, tạo ra những cảnh giới, tham trước các mùi vị và trói buộc vào đó, đây là nhân duyên làm cho tham dục, thọ đêm dài khổ sở, thọ sự khổ cực hình.

Thọ sự trói buộc khổ sở, tăng máu nơi người, tăng nên con đường trống rỗng, qua lại lên xuống nhiều đời đọa lạc sanh vào bàng sanh, ngạ quỉ và A tu la, người, Trời các loài thú, thọ nhận nhiều khổ sở, đều do ý căn chẳng điều phục được vậy.

Như vậy có tên là chẳng điều phục được sự chết.

Thế nào gọi là có thể điều phục được sự chết?

Nghĩa là các Hiền Thánh, đa văn đệ tử thường hay thân cận với những bậc chánh kiến, hiểu biết và có tâm lành. Cho nên phải hiểu đây là tất cả các pháp lành.

Từ nơi pháp lành ấy mà tự điều phục, chẳng theo sự tùy thích của sự thấy nghe như sắc tức là ta, sắc xúc thuộc về ta, sắc ở tại ta, ta ở tại sắc, không thuận theo sự thấy đó.

Thọ tức là ta, thọ xúc ở nơi ta, thọ ở nơi ta, ta ở nơi thọ, chẳng thấy như vậy.

Tưởng tức là ta, tưởng xúc ở nơi ta, tưởng ở tại ta, ta ở tại tưởng, chẳng thuận theo sự thấy như thế.

Hành tức là ta, hành xúc ở nơi ta, hành ở tại ta, ta ở tại hành. Chẳng thuận theo sự thấy như vậy.

Thức tức là ta, thức xúc ở tại ta, thức ở tại ta, ta ở tại thức.

Mắt thấy sắc rồi chẳng chứng và tướng này,chẳng chấp vào sự phụ thuộc.

Do nhân duyên này mà ở nơi con mắt, hay sanh chánh niệm, phép lành, phòng hộ giữ gìn ở yên chẳng khởi tham dục. Cho nên những việc ác, bất thuận theo tâm mà thấm nhuần, tất cả có thể không trói buộc nơi nhãn căn và nơi đây hay gìn giữ những pháp lành, chẳng từ con mắt này mà thấy những cảnh giới.

Chẳng tham sắc, mùi vị làm trói buộc tâm này. Chẳng chuyên vào sự tham mà nhận lãnh đêm dài khổ sở, thọ cực hình, thọ những sự khổ nhọc như tăng máu nơi thân, tăng sự trống không nơi nội tại.

Chẳng làm cho sanh vào bàng sanh, ngạ quỷ hoặc A tu la, Người, Trời các thú để thọ những phiền não. Tất cả đều do sự điều phục được nhãn căn vậy.

Như thế hoặc lúc khi tai nghe rồi, mùi ngửi rồi, lưỡi nếm vị rồi, thân xúc chạm rồi, ý hiểu pháp rồi, không chấp vào tướng ấy, chẳng chấp theo tốt hay xấu.

Do nhân duyên này ở nơi ý căn, lại hay chánh niệm giữ gìn mà ở, chẳng khởi lòng tham lo cho đến nhiều tội ác, chẳng có thiện pháp, tùy theo tâm mà lưu chuyển.

Tất cả đều có thể lo lắng là đều do ý căn, việc tốt hay giữ, chẳng từ ý căn mà nhìn qua các cảnh giới, chẳng tham pháp vị trói buộc tâm này.

Chẳng duyên nơi sự tham này mà thọ nhận đêm dài khổ sở, hay thọ nhận sự khổ sở, sự làm cho khổ, tăng trưởng áp huyết nơi thân và tăng đường trống rỗng nơi ý.

Chẳng qua lại ở đây hay sanh vào bàng sanh, ngạ quỷ và A tu la, người Trời các thú, thọ nhận những sự khổ cực. Tất cả đều do ý căn tốt đẹp điều phục vậy. Như vậy có tên là điều phục mà chết.

Các Tỳ Kheo nên biết! Chẳng điều phục mà chết, chìm đắm vô lượng sanh tử khổ hải. Còn điều phục mà chết thì siêu độ vô lượng sanh tử khổ hải.

Cho nên có tên là hai sự chết.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Lược nói các hữu tình

Phép chết có hai loại

Điều phục hoặc chẳng điều

Chẳng có phép thứ ba

Nếu chẳng điều mà chết

Nhứt định sinh vào thú

Thọ các khổ luân hồi

Trải qua nhiều vô lượng

Kẻ điều phục mà chết

Cuối chẳng vào ác thú

Sanh vào Cõi Trời người

Hay diệt trừ các khổ.

Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Tất cả các pháp, lược nói có hai loại.

Thế nào là hai?

Một là tạp nhiễm.

Hai là thanh tịnh.

Nên quan sát chân chánh do chỉ một pháp.

Vì sao vậy?

Nếu chỉ một pháp, mà hay giữ gìn chánh đáng, tức là tất cả hay giữ gìn tốt. Nếu ở một pháp mà chẳng giữ gìn chân chánh thì ở pháp đó tất cả đều chẳng giữ gìn.

Thế nào gọi là một pháp?

Nghĩa là tâm chúng sanh. Nếu ở tâm ấy chẳng thể giữ gìn, tức chẳng thể giữ thân, miệng, ý nghiệp. Nếu chẳng thể giữ thân ngữ ý nghiệp thì người này tức làm hư hoại tất cả thân ngữ ý.

Thân ngữ ý nghiệp, tất cả đều bại hoại vậy.

Tâm này tức có nhiễm ô cấu uế.

Tâm này nhiễm ô và cấu uế có thể biết được rõ ràng về sự tự lợi lạc và sự lợi lạc cho kẻ khác. Chẳng có nơi nào có thể biết nói lời lành hay nói nghĩa ác. Chẳng có nơi có thể chứng tất cả pháp tối thượng chân chánh Thánh trí.

Lại cũng chẳng có nơi nào cả.

Vì sao vậy?

Vì tâm có nhiễm ô và cấu uế vậy. Dụ như trong thế gian có chỗ quan sát. Nếu ở nơi tâm mà chứa bất thiện tức là duyên nhiễm ô. Tất cả đều bị thấm qua trợ duyên cho sự xấu. Do vậy cho nên bị bại hoại.

Lại như ở thế gian này nơi thôn xóm, tụ lạc gồm có các ao hồ nên nhiễm ô và cấu uế. Người có mắt sáng thì ở tại bên bờ lấy ý quan sát. Ở nơi đó ếch nhái rùa cá, đá sỏi các loại, đi đứng qua lại rất khó khăn.

Vì sao vậy?

Vì nước bị dơ và xấu xa. Như vậy đó chúng sanh nếu tâm chẳng giữ gìn tức chẳng thể bảo hộ cho thân ngữ ý nghiệp được. Nếu chẳng thể giữ gìn thân ngữ ý nghiệp được thì kẻ đó tức đã làm bại hoại tất cả thân ngữ ý nghiệp rồi.

Thân ngữ ý nghiệp tất cả đều bị bại hoại. Tâm này tức bị nhiễm ô, cấu uế. Kẻ có tâm nhiễm ô cấu uế thường có thể thấy biết được sự lợi lạc và làm lợi lạc đầy đủ cho kẻ khác.

Cũng chẳng có nơi nào có thể làm cho hiểu biết lời nói hay, đúng và lời nói xấu ác. Cũng chẳng có nơi nào có thể chứng tất cả pháp chân Thánh tri kiến. Lại cũng chẳng có nơi nào cả.

Vì sao vậy?

Vì tâm này có nhiễm ô và cấu uế vậy. Nếu có tâm hay bảo hộ tốt, tức có thể hộ cho thân ngữ ý nghiệp. Nếu giữ gìn cho thân ngữ ý nghiệp tốt thì người ấy tức là người đã làm cho thân ngữ ý nghiệp chẳng bại hoại. Cho nên gọi là thân ngữ ý nghiệp chẳng bại hoại vậy. Tâm này tức chẳng có ô nhiễm cấu uế.

Tâm chẳng ô nhiễm và cấu uế thì thường hay thấy rõ việc tự lợi lạc và sự lợi lạc cho kẻ khác đều đầy đủ. Ở nơi này thường hay biết rõ việc lành mà nói nghĩa lý cũng như việc ác. Ở nơi ấy hay chứng được tất cả thắng pháp chân Thánh tri kiến.

Ở nơi ấy, tại sao như vậy?

Vì tâm không xấu xa và cáu bợn vậy. Dụ như trong thế gian này là nơi quan sát. Nếu có một tâm mà chứa toàn điều lành, tức sẽ trong sạch. Chẳng có thẩm thấu. Do duyên đẹp đẽ này mà không bị thẩm thấu vậy. Tất cả chẳng hư hại.

Lại như ở thế gian này xa rời làng xóm ao hồ. Chẳng có xấu xa cùng những dơ sạch. Người có mắt sáng sống ở bên bờ tác ý quan sát. Trong này lại có ếch nhái, rùa cá, đá vụn đủ loại.

Đi ngang qua đó có thể thấy rõ ràng.

Vì sao vậy?

Vì nước không đục, không bị cáu bợn vậy. Cho nên chúng sanh nếu có tâm hay giữ gìn thì có thể làm cho thân ngữ ý nghiệp được tốt. Nếu có thể làm cho thân ngữ ý nghiệp được tốt thì người này tức vì thân ngữ ý nghiệp chẳng làm bại hoại.

Cho nên thân ngữ ý nghiệp chẳng bại hoại vậy. Tâm này tức tâm chẳng dơ, không cấu uế. Tâm chẳng ô trược và cấu uế thì có thể thấy rõ sự lợi lạc và sự lợi lạc đầy đủ khác.

Lại có nơi có thể biết rõ lời nói ý nghĩ lành, lời nói ý nghĩ xấu. Lại có nơi có thể chứng được tất cả thắng pháp chân chánh tri kiến. Lại có nơi như thế.

Tại sao vậy?

Vì tâm không có dơ uế và xấu xa vậy.

Các Tỳ Kheo nên biết! Đó là tâm tạp nhiễm vậy, gọi là hữu tình tạp nhiễm. Lại cũng có tâm thanh tịnh, có hữu tình thanh tịnh. Cho nên gọi là tạp nhiễm thanh tịnh hai pháp, tất cả đều nương vào nơi tâm và từ tâm này mà sanh khởi.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Nếu chẳng giữ gìn tâm

Tùy theo các sở thích

Hay buông lung cẩu thả

Tất cả chẳng có làm

Nếu giữ gìn tâm tốt

Chẳng tùy theo ham muốn

Không buông lung cẩu thả

Tất cả đều giữ gìn

Thế gian có kẻ tốt

Hay giữ thân ngữ ý

Chẳng tạo các việc ác

Tên chân thật trượng phu

Lại từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Có hai loại thấy, làm cho các loài hữu tình hay thay đổi tướng tốt xấu, oán hại nhau, ca tụng để thấy, quan trọng đầu tiên.

Này các Sa Môn hoặc Bà La Môn! Hãy nhiếp lấy sự chẳng thấy hãy tập thấy sự chẳng thấy. Nếu chẳng thấy có cũng như ái lạc cùng các sự thấy khác. Thay đổi tướng tốt xấu, oán hại nhau, chẳng thấy nghe sự tán thưởng, là điều đầu tiên.

Nếu có Sa Môn hoặc Bà La Môn ở nơi hai sự thấy có tập diệt mà xa lìa sự ngu muội này, chẳng phải chánh huệ, hiểu rõ như thật thì ta nói người kia tên gọi là vô tri kiến chẳng hiểu biết gì cả.

Có tham sân si, có sai có hại.

Chẳng huệ, chẳng sáng, chẳng thể giải thoát sanh tử, sầu thán, ưu não v.v...

Chẳng thể giải thoát sanh tử và các sự khổ. Nếu có Sa Môn hoặc Bà La Môn ở nơi hai sự thấy này mà các tập diệt vị, quá ngu si xa rời,có thể được chánh huệ, như thật hiểu biết, ta nói người kia được gọi là kẻ tri kiến, chẳng tham sân si, chẳng sai chẳng hại, có trí tuệ sáng suốt.

Thường hay được giải thoát sanh lão bệnh tử sầu não than van v.v...

Có thể được giải thoát sanh tử là những khổ lớn.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Thế gian do hai thấy

Làm cho đúng hoặc sai

Này kia làm giận hờn

Để thấy hoặc chẳng thấy

Kẻ thấy có thế này

Ái lạc chẳng hay bỏ

Đó là kẻ ngu si

Thường hay tự xưng tán

Nếu chẳng biết thấy này

Tập diệt, ngu phải ra

Thấy tên độc, bị thương

Vô minh bị che lấp

Đầy đủ tham sân si

Vô minh thấy trí sáng

Định chẳng thể giải thoát

Sanh lão bệnh tử thảy

Nếu hay biết thấy này

Ra khỏi ngu, tập diệt

Thấy tên độc chẳng hại

Phá vô minh tối tăm

Xa rời tham sân si

Đầy đủ thấy nghe trí

Quyết định hay giải thoát

Sanh lão bệnh tử thảy

Lại từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này.

Các Tỳ Kheo nên biết! Có hai loại chánh kiến, nên tìm sự chân thật mà suy nghĩ quan sát. Kẻ hay tìm hiểu xưng tán, quan sát thì có thể được những gì chưa được, hay gặp những gì chưa gặp, hay chứng những gì chưa chứng, hay qua khỏi sầu than, hay diệt các ưu khổ, hay được như chân lý, hay gặp gỡ Cam Lồ, hay chứng được Niết Bàn.

Sao lại có hai?

Nghĩa là tất cả thế gian chánh kiến và xuất thế gian chánh kiến.

Thế nào mà có tên là thế gian chánh kiến?

Nghĩa là có một loại khởi sự thấy chân thật, lập luận như thật, quyết định có bố thí, có thọ có xấu hổ, có nghiệp lành dữ, có dị thục quả, có thế gian này và ở tại thế gian này có cha, có mẹ, có các loài hữu tình hóa sanh khác nhau nhiều loại. Ở nơi thế gian này có các Sa Môn, Bà La Môn v.v... sống đời thanh tịnh ở thế gian này và thế gian khác. Tự nhiên thông đạt làm được chứng thọ. Như vậy có tên là thế gian chánh kiến.

Này các đệ tử! Nơi đây ta gọi là thế gian chánh kiến nên tìm hiểu tư duy xưng tán quan sát, y vào đó ta nói là thế gian chánh kiến. Có thể làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử, sầu thán, ưu khổ, phiền não v.v...

Nếu chẳng quan sát rõ cũng chẳng hiểu biết, nương vào đó ta nói thế gian chánh kiến, chẳng làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử sầu não, ta thán v.v...

Vì sao vậy?

Như vậy đó nói rằng thế gian chánh kiến.

Chẳng phải là Thánh kiến, chẳng lìa ly kiến, chẳng có thể làm cho cứu cánh Niết Bàn kiến, chẳng yểm chẳng ly, chẳng mất chẳng tịnh, chẳng chứng thông huệ, chẳng thành Đẳng Giác, chẳng chứng Niết Bàn, mà hay bị cảm vào sự sanh lão bệnh tử, sầu thán, ưu não, buồn phiền v.v...

Như vậy biết rồi thì với thế gian pháp này phải sanh tâm sợ hãi, mà tưởng nhớ đến pháp xuất thế gian an tịnh. Cho nên từ đó sanh sợ hãi nơi pháp của thế gian. Cả hai đều chẳng chấp nhận. Khi không chấp nhận rồi, chẳng có cầu mong. Chẳng cầu mong rồi thì nội chứng đắc cứu cánh Niết Bàn. Khi chứng như thế rồi thì tự biết rằng, ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, những gì đã làm xong, chẳng thọ sanh nữa.

Như thế các ngươi! Y theo nơi này nói rằng thế gian chánh kiến, hay tìm tòi xưng tán, quan sát.

Sao lại có tên là xuất thế gian chánh kiến?

Nghĩa là biết sự khổ, biết sự khổ tập, biết sự khổ diệt và có thể biết được hứng thú tới con đường diệt khổ. Cho nên có tên là xuất thế gian chánh kiến. Này các Thánh Đệ Tử, y vào nơi này mà nói xuất thế gian chánh kiến vậy.

Nên tìm hiểu, suy nghĩ, xưng tán quan sát. Y vào nơi này mà nói là xuất thế gian chánh kiến, có thể làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử, sầu não, lo buồn v.v...

Chẳng lắng nghe quan sát rồi, thì làm cho hiểu rõ.

Y vào nơi này mà nói là xuất thế gian chánh kiến, hay là làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử, sầu khổ, ưu bi, phiền loạn v.v...

Cho nên gọi đây là xuất thế gian chánh kiến, đây là chân Thánh kiến, đây là xuất ly kiến, đây là cứu cánh chứng Niết Bàn kiến, hay yểm hay ly, hay diệt hay tịnh, hay chứng thông huệ, hay thành Đẳng Giác, hay được Niết Bàn, hay qua khỏi tất cả sanh lão bệnh tử, sầu thán, lo âu, khổ não v.v...

Như vậy đã biết rồi thì nơi thế gian này sẽ xuất hiện trân bảo, đồng thời ở thế gian này sẽ sanh tư tưởng hạ tặc. Khi có tư tưởng xuất thế trân bảo rồi thì thân được nhẹ nhàng.

Khi thân nhẹ nhàng rồi thì được niềm vui miên viễn, thọ được niềm vui miên viễn rồi thì tâm được tịch tịnh. Khi tâm được tịch tịnh rồi thì có thể sinh thật tri kiến. Khi đã có thật tri kiến rồi thì hay thích xa lìa.

Khi xa lìa rồi thì hay ly dục. Khi ly dục rồi thì hay giải thoát. Khi được giải thoát rồi thì làm cho hiểu biết, ta sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau.

Như thế các ngươi! Y nơi này mà nói xuất thế gian chánh kiến. Nên tìm hiểu và suy nghĩ rõ rồi xưng tán quan sát. Cho nên có tên là hai loại chánh kiến. Nên tìm hiểu xưng tán quan sát có thể được những điều chưa được, có thể gặp những điều chưa gặp, có thể chứng những gì chưa chứng, có thể qua được các sầu thán, có thể diệt được ưu khổ, có thể được như chân lý, có thể gặp gỡ Cam Lồ, có thể chứng được Niết Bàn.

Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa này mà nói kệ rằng:

Chánh kiến có hai loại

Thế gian, xuất thế gian

Kẻ trí thường suy nghĩ

Hay hiểu tất cả khổ

Suy nghĩ nơi thế gian

Mà sinh tâm sợ hãi

Do chẳng chấp vào thọ

Cứu cánh chứng Niết Bàn

Suy nghĩ xuất thế gian

Hay sanh của trân bảo

Hoan hỷ tâm an lạc

Từ đây mà nhẹ nhàng

Nhẹ nhàng rồi an vui

Vui rồi tâm vắng lặng

Tâm định sinh giác chi

Hiểu rõ bốn như thật

Thấy đoạn thật các nghi

Nghi không nơi chứa chấp

Giải thoát tất cả khổ

Chứng Vô Thượng Niết Bàn

Sâu vào nghĩa trước Uẩn Đà Nam viết:

Cho cùng các tập hội

Như cùng chẳng học hết

Hành tướng chết, giống, khác

Sạch dơ cùng hai thấy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần