Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Hai Mươi Bốn - Phật Nói Chư Phật đại đà La Ni đô Hội đạo Tràng ấn Phẩm - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN HAI MƯƠI BỐN
PHẬT NÓI CHƯ PHẬT ĐẠI ĐÀ LA NI
ĐÔ HỘI ĐẠO TRÀNG ẤN PHẨM
TẬP MỘT
Tôi nghe như vậy!
Một thời Đức Phật ngự trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Jeṭavaṇe’nāthapiṇḍadasyārāma tại nước Xá Vệ Śrāvastya cùng với Chúng Đại A La Hán với các Bồ Tát Ma Ha Tát kèm các Kim Cang với các quyến thuộc, tám Bộ Trời Rồng, Lục Sư ngoại đạo, Người, Phi Nhân… cùng dự hội, diễn nói Pháp Tạng bí mật.
Guhya dharma garbha của các Đà La Ni. Dhāraṇī, Tam Muội. Samādhi, Thần Chú. Mantra, Pháp Ấn. Dharma mudrā… lợi ích tất cả.
Bấy giờ, trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát. Eka daśa mukhāvalokiteśvara bodhisatva kèm các quyến thuộc, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đấy, chắp tay, cung kính, cúi năm vóc sát đất, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật.
Lễ bàn chân của Đức Phật xong, lui ra ngồi một bên rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Chư Phật Từ Bi khéo làm phương tiện, đối trước các chúng Thánh nói Pháp Tạng bí mật của Tổng Trì Tam Muội, Thần Chú, Pháp Ấn Đàn… này. Từ quá khứ xưa kia với đời hiện trụ, mười phương tất cả hằng sa Phật đẳng đều nhân vào pháp này được thành Chánh Quả.
Các đồ chúng này: Thâm tâm ưa dính được điều chưa từng có, liền ở trong hội đều nói Pháp Chú để trợ giúp hộ niệm. Chúng con nghe điều này thì tâm sanh vui vẻ. Lại có Đô Hội Đạo Tràng Pháp Đàn, công đức thành tựu, độ thoát tất cả các hàng chúng sanh, mau được thành Phật.
Nếu có Sa Môn Śramaṇa, hoặc Bà La Môn. Brāhmaṇa, hoặc Ưu Bà Tắc.
Upāsaka, Ưu Bà Di. Upāsika, các Thiện Nam Tử. Kula putra, thiện nữ nhân. Kula putrī… tuy tâm yêu thích, muốn học, thọ trì Đà La Ni, Thần Chú, Pháp Ấn do tất cả Chư Phật với hàng Bồ Tát nói… đều chưa từng vào Đô Hội Đàn của con, cũng chưa thể hiểu rõ tên gọi của pháp quyết bí mật mà chưa được chứng thành.
Sợ có người tự ý làm nhóm Pháp Ấn bị đủ các phiền não xâm nhiễu thân tâm. Nhóm người như vậy chẳng hiểu được ý của con, coi thường mà làm sằng bậy, dẫn đến việc khiến cho chúng ma động niệm, tán loạn… sức Chú không có hiệu nghiệm.
Thế nên, nay con muốn hộ giúp Sa Môn với Bà La Môn kèm với hàng Trời, Người… muốn khiến cho thông suốt pháp trọn đủ do tất cả Chư Phật nói, không có trở ngại… đại chúng nghe xong, thật xưng chẳng phải là sằng bậy.
Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Mau vì ta nói.
Rồi nói kệ là:
Mỗi một các Cõi Phật
Tâm ưa dính nhiều pháp
Rộng dẫn Tạng bí mật
Khéo nói phương tiện khéo
Khuyên dạy các chúng sanh
Từ bi tự hộ niệm
Nghe Đà La Ni này
Tất cả đều quy phục
Hoặc có Đô Pháp Đàn
Cùng hội tất cả ý
Theo Phật Pháp ấn khả
Chứng thành, dứt nghi hoặc.
Khi ấy, tất cả Chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang, quyến thuộc, tám Bộ Trời Rồng, nhóm Dược Xoa Quỷ. Nghe Đức Phật nói Kệ vi diệu xong, đều rất vui vẻ, tâm không có nghi ngờ, quyết định tin tưởng chân thành.
Lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát nương theo oai thần của Phật bảo đại chúng rằng: Nếu có Sa Môn, hoặc Bà La Môn, hoặc nhóm thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn thỉnh yếu quyết của Pháp Tạng bí mật, ý muốn thành tựu với các Quốc Vương sanh tâm quyết định muốn cầu sám hối, diệt tất cả tội, nguyện ưa thích thấy nghe việc của Đô Đại Đạo Tràng Đàn Pháp đều nên chuẩn bị trước, gần ba tháng của mùa Xuân, ba tháng của mùa Thu, ba tháng của mùa Đông.
Trong tháng bên trên này: Mùa Xuân thì chọn ngày một tháng ba, nếu mùa Thu thì chọn ngày một tháng chín, mùa Đông thì chọn ngày một tháng mười hai … như vậy là ngày cực tốt bậc nhất, đều chọn thượng tuần làm khởi đầu, cho đến bảy ngày bảy đêm thì việc pháp xong hết.
Nếu muốn tác ý thành biện việc pháp. Trước tiên, nên chuẩn bị tìm một nhà viện lớn rộng rãi thanh tịnh, với nơi có nhà cửa lớn tinh tế đẹp đẽ hoa lệ, cho đến nhà chùa, nơi có Phật Đường… lại ở đất trống cũng được.
Xác định biết nơi chốn xong, đến sáng sớm của ngày một của kỳ Bạch Nguyệt, A Xà Lê Ācārya cùng với các đệ tử Śiṣya dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, đem các hương hoa đến nơi chốn ấy. A Xà Lê cầm Bạt Chiết La.
Vajra: Chày Kim Cang cần phải hỏi các đệ tử ấy rằng: Các ngươi đều hay quyết định thọ nhận Pháp Tạng bí mật do các Phật Đẳng của ta nói mà không sanh nghi ngờ chăng?
Đồ Chúng đáp rằng: Chúng con ở trong Phật Pháp, quyết định tin tưởng chân thành, chẳng sanh nghi ngờ như vậy lớp lớp hỏi ba lần, đáp ba lần.
Đồ Chúng đáp xong. Sau đó, A Xà Lê ấn vào lư hương với nhóm nước sạch, dùng Mã Đầu Ấn ấn vào nước sạch ấy, Chú hai mươi mốt biến, rồi bưng lư hương, quỳ gối, đốt hương, ngưỡng khải tất cả Chư Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên cùng với tất cả Minh Thánh, Nghiệp Đạo.
Nay đất này là đất của con. Nay con muốn lập Hội của Đô Đại Đạo Tràng Pháp Đàn bảy ngày bảy đêm, cúng dường tất cả mười phương hằng hà sa Phật đẳng, tất cả Bát Nhã Ba La Mật Đa, các chúng Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên trong tất cả Đại Địa. Ngưỡng thỉnh Chư Phật lãnh các đồ chúng quyết định đại pháp môn chẳng thể nghĩ bàn của tất cả Pháp Tạng bí mật, nhận lấy chứng thành.
Nay con muốn làm việc Pháp: Hộ Thân, kết giới, cúng dường… ở bên trong Viện này: Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên, dưới… hết thảy tất cả hàng thần quỷ ác đều đi ra ngoài nơi con kết giới bảy dặm. Nếu thần quỷ thiện, hàng có lợi ích trong Phật Pháp thì tùy ý mà trụ.
Nói lời này xong. Tiếp theo, dùng nước lúc trước nhiễu quanh rưới vảy khắp đất của Đạo Tràng. Tiếp theo, liền làm Quân Trà Lợi Pháp lúc trước, một lần kết giới. Ấn Chú kết giới ấy như trong Quân Trà Lợi Bộ đã nói, lại không có pháp riêng.
Khi đang kết giới thời tùy theo tâm của A Xà Lê nêu lên xa gần, rộng hẹp làm giới lượng của Pháp Đàn ấy. Nếu vì Đế Vương thì một trăm hai mươi khuỷu tay. Nếu Đàn thọ pháp thì vuông vức mười sáu khuỷu tay, mười hai khuỷu tay.
Nếu Đàn sám hối với Đàn trị bệnh thì đều làm Thủy Đàn bốn khuỷu tay trở xuống đến một khuỷu tay… phần bên trên đều được thông dụng. Khủy tay ấy dài ngắn tùy theo khuỷu cánh tay của Chú Sư dài ngắn dùng làm số do lường. Đất ấy đều cần phương diện ngang bằng.
Nếu làm Thủy Đàn cũng chẳng cần lựa chọn ngày, tháng, thời tiết. Đất ấy, tùy theo được nơi trong sạch liền làm, mặt đất bằng phẳng ngay ngắn, liền đem bùn hương xoa tô trên đất ấy liền thành Đàn Pháp, lại cần bốn góc dựng dấu hiệu để ghi nhớ.
Nếu làm Đại Đàn, như lúc trước kết giới, bốn góc dựng dấu hiệu. Ghi dấu hiệu ấy xong thì hô gọi người đào đất loại bỏ đất xấu ác. Nếu được đất bậc thượng thì đào bỏ một gang tay. Nếu được đất bậc thứ thì đào bỏ một khuỷu tay. Nếu được đất bậc hạ thì đào bỏ ba khuỷu tay… trong ấy đều loại trừ xương, tóc, than, tro, gạch, đá sỏi, đá nhỏ, rễ cây, cỏ cây, vỏ trấu, nhóm vật xấu ác.
Hết các vật xấu ác thì đến đất thật tốt đem đất tốt đến đổ xuống đáy một lần thì dùng nước hương đổ xuống một lần cho thấm đất, liền dùng chày mỗi mỗi lấp nện khiến cho tràn đầy bằng bẳng, đều nên cứng chắc. Nếu được nền cao thì rất ư bậc nhất.
Tiếp theo, ngày thứ hai, vào lúc sáng sớm. A Xà Lê với các đệ tử dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới… bốn, đệ tử đi theo A Xà Lê vào Đàn, dùng sức sai khiến trang nghiêm Đạo Trường.
Oai nghi bên ngoài ấy: Bốn cửa, bốn góc đều nên oai nghiêm, cửa riêng đều để hai vị Thần Vương, lại hai gian bên trái phải đều treo Phan của Thần Vương, mỗi một cửa bốn cái, treo ba mươi sáu phan lụa đủ màu.
Cửa riêng như vậy, Phan ấy mới tốt dài tám xích 8/3m, bốn góc đều treo một Phan của Thần Vương, treo phan lụa đủ màu, cửa riêng bốn cái. Cây phan ấy cũng dựa theo đây.
Nếu ngay trong nhà, chỉ mở hai cửa trước, sau. Hai bên cửa trước để một cặp Tượng Thần Vương đối nhau, hai bên cửa sau cũng để một cặp tượng Thần Vương đối nhau. Đều là tượng mới, tốt.
Hai bên trái phải của cửa Đạo Tràng ấy đều dựng bốn cây cọc, dùng dây thừng vâu quanh. Bên trong vòng dây thừng ấy dùng bùn hương xoa bôi để hộ Tịnh Giới. Trong ấy nghĩ định để tất cả cúng dường.
Tiếp theo, A Xà Lê lại làm một lần Quân Trà Lợi Pháp kết giới xong rồi, liền làm một cái hũ bằng mọi loại bùn hương, dùng cành Liễu quấy đảo xong, tụng Bát Nhã Đại Tâm Chú.
Chú là: Đá điệt tha yết đế, yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế Bồ Đề sa ha.
Biến số của Chú ấy. Nếu vì Quốc Vương thì tụng mãn một trăm lẻ tám biến. Nếu vì Tam Phẩm trở trên thì tụng năm mươi sáu biến. Nếu vì Tứ Phẩm, Ngũ Phẩm thì tụng bốn mươi chín biến. Nếu vì Lục Phẩm, Thất Phẩm thì tụng 35 biến, Nếu vì Bát Phẩm trở xuống với trăm họ thì tụng hai mươi mốt biến. Tất cả Đàn Pháp đều Chú như vậy, chú vào Bùn xong, dùng bùn xoa tô mặt đất.
Pháp xoa tô đất thì tùy theo mặt trời mà xoa chà. Xoa tô đất xong, lại làm một làn Quân Trà Lợi Pháp kết giới như lúc trước.
Tiếp theo, ngày thứ ba: Sáng sớm tắm gội, dùng phân bò sạch, lấy phân bò ấy chưa rơi xuống đất, đem vật khí sạch hứng lấy, rồi hòa với nước hương, Chú như lúc trước xong, xoa bôi khắp đất. Tiếp theo, đem một sợi dây thừng, liệu lường số khuỷu tay dài ngắn hợp thời.
Nhìn xem Viện rộng hẹp mà đo lường, kết số ghi nhận xác định. Ở bốn phương của Đạo Tràng kéo dây, dùng phấn trắng chấm điểm để ghi nhớ A Xà Lê trước tiên từ góc Đông Bắc đến góc Tây Nam kéo dây xác định, lìa cây trụ bốn ngón tay, chấm xuống một điểm để ghi nhớ.
Tiếp theo, từ góc Đông Nam đến góc Tây Bắc, kéo dây xác định, lìa cây trụ bốn ngón tay chấm xuống một điểm để ghi nhớ. Ngay chính giữa, nơi dây giao nhau lại chấm xuống một điểm xong, đều ở ngay chỗ chấm điểm, đào một cái lỗ nhỏ, sâu khoảng một gang tay, trong đó nghĩ định chôn bảy báu, năm loại lúa đậu.
Ngũ cốc bảy báu ấy là: Một là vàng, hai là bạc, ba là trân châu, bốn là San Hô, năm là Hổ Phách, sáu là thủy tinh, bảy là Lưu Ly.
Đây gọi là bảy báu năm loại lúa đậu ấy là: Một là đại mạch, hai là tiểu mạch, ba là đạo cốc, bốn là tiểu đậu, năm là mè. Đây gọi là ngũ cốc nghiền nát nhóm báu ấy hòa chung với ngũ cốc, dùng mảnh lụa gói lại, dùng chỉ năm màu cột buộc đầu rồi đem chôn bên trong năm cái lỗ, ló đầu sợi chỉ ấy ra bên ngoài mặt đất, dài khoảng năm ngón tay.
Nhóm vật báu này một khi chôn xuống thì vĩnh viễn chẳng được lấy ra từ đây dấy lên giới địa sợi dây vàng do bảy báu hợp thành nơi chốn mà Chư Phật ngự bên trên, diễn nói đại thừa, chuyển bánh xe pháp. Liền dùng đất này đem làm Phật Đường là rất ư bậc nhất người phàm ở bên trên thì không có một chút lợi ích nào. Tiếp theo lại kết giới.
Pháp kết giới ấy: Cầm Bạt Chiết La.
Vajra: Đường phiên dịch là chày Kim Cang, y theo Quân Trà Lợi Pháp dùng kết giới ba hồi, đi theo bên phải, ở bên ngoài Đàn lại làm Tịch Trừ Tỳ Na Dạ Ca Ấn Pháp, tụng Chú. Như vậy, thứ tự bốn phương, trên dưới, cùng kết giới xong, đến ban đêm thì thắp đèn.
Tiếp theo, ngày thứ tư: Sáng sớm kết giới cũng như bên trên nói. Liền dùng phân bò hòa với nước hương làm bùn, đồng với Chú lúc trước xong, sai nhóm đệ tử dùng bàn tay chà xoa đất, từ góc Đông Bắc khởi đầu, hướng về bên phải chuyển theo mặt trời chà xoa, đừng chà xoa ngược về bên trái.
Như vậy thứ tự chuyển chà khắp đất đến góc Đông Bắc. Ở trong Đạo Tràng, đệ tử hành động một vật nêu bên trên, bố trí pháp dụng, đều tùy thuận theo mặt trời hướng về bên phải đi, chẳng được ngược mặt trời hướng về bên trái mà đi.
Đất của Đạo Tràng ấy: Dài rộng, ngay ngắn rồi mở bốn cửa, bốn góc dựng cái đòn tay, chôn sâu cái đòn tay ấy, bốn mặt ở đầu trên bốn cái đòn tay đều đặt riêng một cái đòn tay nằm ngang, cái đòn tay ấy đều cần một loại thô lớn, bốn mặt tinh tế cần gọt vót cho vuông vức.
Chiều dọc, vót phần nằm ngang của đầu bên trên, đục cái lỗ đều cũng mỗi mỗi xuyên qua. Theo cách làm nhà để gác cây ngang, bốn phương ngay thẳng, dài ngắn hợp thời, nhìn xem Đạo Tràng ấy rộng hẹp, lớn nhỏ… chẳng thể dự định mà ước lược định đúng. Dùng cây trúc thô thế cho nhóm đòn ngang cũng được. Ở trên cây ấy cùng ràng quấn lụa màu, đủ màu xen kẽ nhau.
Tiếp theo, lấy cái phan lớn che trùm ở bên trên tám lối đi ngang dọc: Đông, Tây, Nam Bắc, bốn góc giao nhau. Đây gọi là Pháp Thượng Phương Trang Nghiêm.
Trên cái phan lớn ấy: Phía Đông treo một cặp cờ hiệu màu xanh biếc, phía Nam treo một cặp cờ hiệu màu lụa đào, phía Tây treo một cặp cờ hiệu màu trắng, phía Bắc treo một cặp cờ hiệu màu xanh đậm, ở giữa treo bốn cái cờ hiệu màu vàng, đều khâu dính liền treo trên cái phan lớn. Giúp cho biết khí của vua ở năm phương.
Tiếp theo, ở bốn mặt đều để cái phan lớn mà làm Lan Ngạch. Tấm hoành phi treo ngang dọc.
Tiếp theo, ở trên tấm hoành phi, bốn mặt đều treo phao hoa bằng vàng, đồng cùng với nhóm vật: Vàng, bạc, gương báu… mỗi mỗi cách nhau đều như thế, kèm trang sức bốn cây trụ cũng lại như vậy, theo thứ tự trang nghiêm.
Tiếp theo, kéo dài sợi dây vây quanh bốn mặt, cột dính trên cây trụ. Trên sợi dây ấy treo phan lụa đủ màu, mọi chuông mõ báu với các vật đeo trang sức báu… xen kẽ nhau trang nghiêm.
Tiếp theo, ở bốn mặt dùng trân châu nhiễu quanh. Tiếp theo, để lưới báu, mọi loại.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Lục Thọ Thân
Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Hai Mươi Năm
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bạt Kỳ Tử
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tứ Chánh đoạn - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Hai Mươi Hai -phẩm ái Thân - Thí Dụ Bốn Mươi Năm
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Thân Hành Niệm - Phần Bốn - đầy đủ Chánh Niệm
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Mười Năm - Phẩm đại Như - Tập Một