Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Mười Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN TÁM
THẬP NHẤT DIỆN
QUÁN THẾ ÂM THẦN CHÚ KINH
TẬP MƯỜI HAI
Về sau, nếu chữa bệnh cũng y theo pháp này. Khiến người bệnh ấy tại mặt Đông của Chú Sư hướng về phía Bắc ngồi. Chú vào hạt cải trắng nhiễu quanh trên đầu người bệnh ấy rồi thiêu đốt. Ba ngày quyết định được khỏi bệnh.
Nếu làm pháp Đàn này, như có thể sau này được lúc Nhật Nguyệt Thực làm Đàn này thì rất ư đại nghiệm.
Nếu chẳng gặp lúc Nhật Nguyệt Thực thì ở trong tháng ấy chọn lấy ngày tốt.
Nếu không có nơi chốn tốt như lúc trước thì nên tìm cái chùa tốt làm Đàn cũng được. Nhưng Chú Sư ấy cần phải được người khác bố thí con ngựa trắng. Nếu không có ngựa trắng thì dùng bạc làm con ngựa đem cho Chú Sư.
Nếu không có bạc làm con ngựa thì chọn lấy vật mà ý của Chú Sư cần dùng, thay cho con ngựa. Nếu không có vật thì dùng tâm tốt hiếu thuận, giữ giới bền chắc cũng được. Chẳng trái ngược với sự dạy bảo nghiêm quyết của A Xà Lê thì mới dạy pháp này Công Năng của Tỳ Câu Tri Bồ Tát Chú.
Nếu có Sa Môn, hoặc Bà La Môn, hoặc thiện nam tử, thiện nữ nhân… trì Đại Chú Ấn này, làm hộ thân, kết giới, mọi loại làm pháp, chữa bệnh, sám hối… cúng dường hương hoa không dứt, sẽ được Bồ Tát hộ niệm.
Nếu muốn vào cung A Tu La. Ở trong tám năm, ngày ngày tụng Chú mãn ba ngàn biến làm Tam Nhãn Ấn, Chú vào hạt cải trắng một trăm lẻ tám biến, một lần Chú thì một lần đánh ném trên đất thì đất liền mở ra hang động, Chú Sư đi vào, muốn trụ được thấy Phật Di Lặc liền tùy ý mà trụ. Nếu muốn đi ra thì đừng vào trong thành.
Nếu thấy giữa đường có tài vật, lượm lấy đi ra cũng không có tội. Nếu có quả trái, hái lấy mà ăn, thì sống lâu một ngàn tuổi.
Nếu ý muốn làm biển lớn khô cạn thì có thể đến bên bờ biển, trải qua ba tháng dùng đãi Chú lúc trước chú vào hạt cải trắng một trăm lẻ tám biến, rải tán trong nước biển, ngày ngày như vậy thì nước biển liền khô cạn.
Nếu ý muốn bắt được Rồng. Cần phải ở gần bên nước có Rồng, trải qua một trăm ngày, làm pháp tụng Chú thì Rồng ấy tự đi ra, đến gặp Chú Sư nhận chịu sự điều phục.
Nếu trị bệnh nóng sốt rất là hiệu nghiệm.
Nếu người muốn được An Đát La Đà Na. Lấy Ma Na Sất La. Đường nói là Thạch Hùng Hoàng, Mật Đà Tăng… phần lượng của hai vật bằng nhau, cùng đâm giã làm bột, lại nghiền cho mịn.
Trải qua sáu tháng, ngày ngày tắm gội mặc áo sạch mới, ngày ngày ba thời: Sáng sớm, giữa ngày. Giờ Ngọ với lúc mặt trời lặn, chí tâm, Chú vào thuốc một trăm lẻ tám biến, lại Chú bảy biến rồi chấm vào trong con mắt tức được tùy ý, An Đát La Đà Na rửa đi mới nhìn thấy. Vật thuốc ấy đừng để cho người khác cầm.
Nếu ý muốn vào cung A Tu La. Có các vật ác, La Sát, rắn gây chướng nạn với cửa chẳng mở ra. Nhóm chướng đen tối đều chuẩn bị tác ý, Chú vào hạt cải trắng một ngàn không trăm lẻ tám biến, tự mang theo đi, gặp nơi có chướng liền dùng đánh ném thì nơi nơi chốn chốn đều không chướng ngại. pháp vẽ tượng Tỳ Câu Tri.
Nếu dùng lụa mỏng trắng, hoặc ở trên vải… vẽ làm Tượng ấy. Họa Sư trước tiên thọ trì tám Giới Trai, vẽ tượng Thích Ca Phật, gian bên trái vẽ Kim Cang, gian bên phải vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Phật ấy màu vàng ròng, thân mặt của Kim Cang đừng đen đừng trắng, hình trạng như Đồng Tử mười sáu tuổi, tất cả thân phần giống như pháp trang nghiêm thân Bồ Tát.
Quán Thế Âm ấy: Mặt với thân phần, mão trên đầu, Anh Lạc, áo Trời trang nghiêm, quần gấm Ỷ La… đều như pháp vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát ở nơi khác. Bên dưới bàn tay trái của Quán Âm vẽ riêng hình Thiên Nữ thân đều màu trắng, quần áo trắng đỏ, dung mạo rất đoan chánh, đầu đội mão hoa. Tiếp theo vẽ Chú Sư ngay bên dưới, quỳ gối, tay bưng lư hương, hướng về Quán Thế Âm.
Làm Tượng này xong. Từ ngày một đến ngày mười năm của kỳ Bạch Nguyệt nên ăn Đại Mạch, cháo sữa, luôn tụng Chú sau… đṇ ngày tám của kỳ Hắc Nguyệt, ba ngày ba đêm đừng ăn, cúng dường Tượng thời tượng Thiên Nữ ấy liền phóng ánh sáng nhập vào trong ngón chân của Phật. Thấy tướng này thời Tâm Nguyện được kết quả.
Nếu muốn thấy Bàn Trà La Bà Tư Ni. Pāṇḍara vāsinī. Vào ngày mười ba hoặc ngày mười bốn, hoặc ngày mười năm… ba ngày ba đêm có thể vào trong nước biển lớn tụng Chú, trương Tượng vẽ ấy ở trên bờ biển, dùng trăm ngàn hoa sen cúng dường, thời Bàn Trà La Bà.
Tư Ni Thiên Thần hiện đến. Lúc đó, tu Đạo thông minh, Trí Tuệ, Biện Tài, Trì Chú Tiên Nhân… tùy theo ước nguyện ấy đều được như ý Lại Tỳ Câu Tri Chú là:
Na ma tát bà đá tha yết đê phiếu bà già bà đế tệ Úm tát bả bà dạ na xá nễ đát la sa nễ, đát la sa nễ đát la sa dạ, đát la sa dạ đát la tây bật cự trí nễ củ trí đá trí đá trí phệ đá trí, phệ đá trí hộ lỗ lỗ phệ đá trí thuế đê xà trí nễ sa ha.
Chú này cũng có tên là Quán Thế Âm Bồ Tát Thuyết Kim Cang Chú. Khi tụng Chú này thời tất cả chứng nạn thảy đều ngưng dứt.
Nếu muốn tự hộ thì Chú vào tro bảy biến, chấm lên trán, dưới cổ kèm trên hai bắp tay thì đi đến nơi nào, cũng không có sợ hãi.
Nếu vì người khác thì Chú vào đầu tóc ấy, kết tác làm búi tóc, tâm luôn niệm Chú thì tất cả quan phủ hoặc đi một mình trong đêm, hoặc đi giữa đám giặc cướp, tất cả nơi đáng sợ… đều được không có nạn. Hết thảy người ác đều vui vẻ quy phục, chẳng thể gây trở ngại.
Muốn hàng phục tất cả. Nên ở ngày mười năm của kỳ Bạch Nguyệt, một ngày một đêm đừng ăn. Dùng cây Bồ Đề làm củi nhúm lửa, lấy một dúm mè, Chú vào một biến xong thì ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy số đủ tám ngàn biến thời tất cả quy phục Cây Thi Lợi Sa Śirīṣa: Là cây Hợp Hoan là cái cây mà Câu Lưu Tôn Phật.
Krakucchanda buddha đắc đạo. Chỉ là cái cây mà Phật đắc đạo liền được dùng vậy. Cây khổ luyện cũng được.
Nếu bị tất cả người oán ếm đối muốn cho mất tâm tánh. Lấy xưng người làm làm cây cọc, Chú vào tám ngàn biến, đóng chôn dưới cửa nhà người Oán ấy thì trở lại khiến cho người ấy bị mất tâm tánh vậy.
Lại có pháp. Lấy tro thiêu đốt xác chết, vào ngày tám của kỳ Hắc Nguyệt, Chú vào một dúm tro một lần rồi ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy mãn tám ngàn biến thì người oán kia liền bị diệt.
Lại có pháp. Vào ngày mười bốn của kỳ Hắc Nguyệt, vào trong nước đứng ngập đến rốn, tụng Chú thì tất cả Oan Gia, giặc ác, quần chúng… cả hai đều làm hòa giải đều sanh tâm hiền thiện.
Lại có pháp, muốn làm Tứ Phương kết giới. Lấy bốn cây Khư Đà La. Khadīra dài tám ngón tay, đều Chú vào tám trăm biến xong, đóng ở bốn phương thì tất cả Quỷ ác với người Oán ác đều chẳng được vào bên trong giới này. Lại ở trong giới làm Mạn Trà La, Chú vào nước hai mươi mốt biến rải tán trên đất, liền thành kết giới. Ở bên trong liền có thể làm Chú pháp vậy.
Lại có pháp. Tát Đỏa Mỗ Đá Bả Tra Na Hồng Bồ Lợi Sa Tỳ bảy lần Chú vào hạt cải.
Lại có pháp nói là: Sống lâu, thiếu vật, khó thành… chẳng phiên dịch vậy.
Lại có pháp. Lấy một chút Tần Ngưu Tô, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, như vậy số mãn tám ngàn biến xong. Nếu đến tất cả bệnh đau nhức, chướng ngại thảy đều tiêu trừ. Cũng chẳng cần xem ngày tháng, thời tiết… làm được liền làm, củi cũng nhận dùng.
Lại có pháp. Lấy Một Hoạn Tử làm củi nhúm lửa thiêu đốt thuốc. Đấy này không có, cho nên bị thiếu.
Lại có pháp. Giặc giận dữ đi đến muốn gây trở ngại cho ta. Tụng Chú này xong, tức tâm vui vẻ.
Lại có pháp. Vì việc Quan, vào ngày tám của tháng, ở bên tượng Quán Ấm, Chú vào hoa trắng, một cọng một biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt, mãn tám ngàn biến thì việc quan được cởi thoát hết.
Lại có pháp. Có giặc muốn đến xâm loạn, ở trước tượng Quán Âm, chí Tâm tụng Chú thì giặc liền quay trở lại, bỏ đi.
Lại có pháp. Tùy cầu pháp nào, khi tụng Chú này thời thiêu đốt, không có khói, than… Chú vào hạt cải trắng, một hạt một biến rồi một lần ném vào trong lửa thiêu đốt. Mãn tám ngàn biến thì điều đã mong cầu đū được toại nguyện. Lại Chú vào hạt cải trắng bảy biến thì tất cả hàng Khởi Thi Quỷ thảy đều bị cột trói.
Lại có pháp. Chú vào Thạch Mật bảy biến, ném vào trong nước, liền lấy nước này làm Mạn Trà La, kết giới. Ở bên trong tụng Chú thì tất cả sư tử, loài trùng lớn, cầm thú, trâu, voi trắng, La Xà Chu La, nước… đều chẳng thể gây hại.
Lược nói xong Pháp Ấn Chú với Công Năng của Tỳ Câu Tri. Hà Gia Yết Lợi Bà Quán Thế Âm Bồ Tát Pháp Ấn Chú Phẩm.
Hayagrīva: Đường phiên dịch là Mã Đầu Đương Bộ Ấn tức có tám.
Chú có mười sáu Mã Đầu Hộ Thân kết giới Pháp Ấn Chú thứ nhất: Hai tay đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống hướng ra ngoài cài chéo nhau, đều nắm lưng bàn tay, chắp tay lại, dựng thẳng hai ngón trỏ cách nhau khoảng năm phân 5/3cm, kèm hai ngón cái dính nhau đều co lóng thứ nhất, đừng dính ngón trỏ.
Đưa ngón cái qua lại Chú là:
Úm bát la tì ca, tất đá bạt chiết la thiệp phiệt la, la chi sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu muốn thọ trì Pháp của Bồ Tát này. Trước tiên, nên dùng pháp ấn này, tụng Chú hộ thân của mình xong. Lại Chú vào cây gỗ bảy biến, hoặc Chú vào nước bảy biến, lại dùng Ấn ấn vào nước.
Hoặc Chú vào hạt cải trắng, hoặc Chú vào tro… thảy đều Ấn Chú mãn bảy biến xong, đem cây gỗ dựng ở bốn góc làm Giới. Rải tán hạt cải, tro, nước ở mười phương đều thành kết giới, sau đó làm các việc pháp ắt sẽ có nghiệm.
Mã Đầu Đại pháp Thân Ấn Chú thứ hai: Hai tay đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống hướng ra ngoài cài chéo nhau, đầu ngón đều nắm dính lưng bàn tay, chắp tay lại, kèm dựng hai ngón út hợp nhau, kèm hai ngón cái dính nhau, gắng sức co lại.
Đưa ngón cái qua lại Chú là:
Úm đỗ na đỗ na ma tha ma tha khả đà khả đà ha gia yết lợi bà ô hồng, phất sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu người bị trùng độc với rắn cắn, hoặc bị người ác hại… dùng Ấn ấn xong, Chú vào liền khỏi.
Lại có pháp. Nếu muốn được Mị Cổ đi đến, lấy hoa Tô Ma Na. Sumaṇa, ở trước tượng Mã Đầu, Chú hai mươi mốt biến thì một lần rải dưới chân tượng xong, tay phải lấy hoa thì nơi đã đi tùy yêu thích Mị Cổ đi theo sau, Chú vào Hoa bảy biến rồi rải tán tức liền đến.
Lại nếu người có tâm bỉ thử. Tâm chấp đó đây lấy quả trái, Chú vào hai mươi mốt biến rồi sai người đưa cho ăn thời tâm liền mê loạn, rất yêu nhớ mình, liền không có ý khác.
Mã Đầu Pháp Tâm Ấn Chú thứ ba: Hai tay đem bốn ngón từ ngón trỏ trở xuống hướng ra ngoài cài chéo nhau, đầu ngón đều nắm dính lưng bàn tay, chắp tay lại, kèm hai ngón cái dính nhau, đều co lóng thứ nhất, đừng dính ngón trỏ.
Đưa ngón cái qua lại Chú là:
Úm A mật lợi đô tri bà bà ô hồng, phất sa ha.
Pháp Ấn Chú này, nếu muốn luận nghị. Lấy Ngưu Hoàng, Xạ hương, Long Não hương hòa mài ba vị ấy rồi Chú vào một ngàn không trăm lẻ tám biến, điểm chấm trên đỉnh đầu với trên hai bắp tay, trái tim, cổ họng, tam tinh, chân tóc trên trán, sau ót.
Lại lấy hạt cải trắng Chú vào hai mươi mốt biến, dùng tay phải nắm lấy, đi đến bên cạnh cửa của chỗ luận nghị rồi rải tán, còn tay trái giữ lại chút ít, lúc chính thức nghị luận thời dùng tay phải nắm hạt cải ở tay trái hướng về người luận nghị, kín đáo rải tán, liền búng ngón tay tức đều được thắng kẻ khác. Pháp nên như vậy.
Mã Đầu Đầu Pháp Ấn Chú thứ bốn: Dựa theo Hộ Thân ấn, chỉ sửa hai ngón trỏ trụ đầu nhau, đều co đều lóng của hai ngón cái, để đầu ngón út thành mũi nhọn.
Chú là:
Đá điệt tha chước ca la lệ bố chước ca la xoa lệ bố chước ca la bả đàm ma xoa lệ bố A mô ca tả:
Xưng tên người ấy thủy la chỉ trưng bả la xá võng già xa đổ sa ha xoa. Sa ngược lại, chỗ khác đều như thế pháp ấy. Nếu tất cả người bị đau đầu. Đầu thống. Lấy danh tự của người ấy, liền tụng Chú này vào nước, tác âm thanh ô hồng.
HŪṂ xong, liền dùng nước này, đánh trên đầu người đó, ấn ngay chỗ bị đau, thì bệnh đau nhức đó sẽ khỏi. Bản xưa bị thiếu Chú này Mã Đầu Đảnh Pháp Ấn Chú thứ năm: Dựa theo Đầu Ấn lúc trước, chỉ sửa, dựng hai ngón trỏ dính đầu nhau. Bày hai ngón giữa ngay trước ngón trỏ, trụ đầu nhau.
Chú là:
Úm thất lợi la lợi chí ô hồng phất sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu có người bị đau đầu, đảnh… nên dùng Ấn này ấn ngay chỗ bị đau, tụng Chú.
Liền khỏi Mã Đầu Khẩu Pháp Ấn Chú thứ sáu: Cài ngược hai ngón. Ngón út,ngón vô danh bên trong lòng bàn tay. Dựng thẳng hai ngón giữa trụ đầu nhau. Kèm dựng hai ngón cái, đem ngón trỏ phải vịn đầu ngón cái phải, dựng ngón trỏ trái hơi cong bên cạnh ngón giữa.
Chú là:
Úm cốt lỗ lô cưu lô đà na ô hồng phất sa ha.
Pháp Ấn Chú này dùng trị tất cả bệnh Quỷ, liền khỏi Mã Đầu Nha Pháp Ấn Chú thứ bảy: Dựa theo Quán Thế Âm Bất Không Quyến Sách Bồ Tát Nha Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón giữa dựng thẳng dính đầu ngón, kèm dựng hai ngón cái nắm ngón giữa. Trước tiên đem ngón út trái nắm lưng ngón vô danh phải, sau đó đem ngón út phải nắm lưng ngón út trái.
Chú là:
Nam Mô la đá na đát la dạ gia Nam Mô a lê gia bà lô cát đế nhiếp bà la gia bồ đề tát đỏa gia Ma ha tát đỏa gia Ma ha ca lô ni ca gia Đá điệt tha Đá la tra đá la tra mạt tra, mạt tra sân đà, sân đà tần đà, tần đà Ô hồng phất phất sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu phá các pháp, muốn khiến cho Chú pháp do người khác làm chẳng được thành công, nên làm cái Đàn phấn ba màu rộng bốn khuỷu tay.
Hai mặt Nam, Bắc vẽ tòa hoa sen, ở trên tòa ấy vẽ hình răng nanh. Mặt Đông làm tòa hoa, trên tòa làm Bát Chiết La Ấn, thắp mười hai ngọn đèn, thức ăn khác nhau có trăm mùi vị, đặt trong tám cái mâm.
Thức ăn đó, mỗi ngày đều thay đổi cho mới, mỗi mỗi thay mới, cúng dường đủ bảy ngày, ngày riêng nên Chú vào hạt cải trắng một trăm lẻ tám biến, một lần Chú một lần ném vào trong lửa thiêu đốt thì tất cả các người tác pháp đều bị phá, chẳng thể thành công được. Người khác là ngoại đạo, người ác.
Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Khất Thực Pháp Ấn Chú thứ tám: Ngửa tay trái, đều dựng năm ngón tay. Hướng tay phải xuống dưới, đem ngón giữa, ngón vô danh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Chín - Phẩm Nhân - Kinh Tăng Thượng Tâm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Chín - Phẩm Tinh Tấn Ba La Mật đa - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Mười Hai
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Bảy - Ngạ Quỷ Sự - Phẩm Một - Phẩm Con Rắn - Chuyện Thí Dụ Phước điền
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Một - Phẩm Vô Thường - Tập Ba