Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Chín
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ BẢY
PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM
PHẦN CHÍN
Này Vô Biên Huệ! Lúc ở trước Đức Như Lai kia bạch như vậy, Tỳ Kheo Nhất Thiết Nghĩa Thành và quyến thuộc của ông chứng được vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát. Vì được vô sanh pháp nhẫn nên đều được bất thối chuyển.
Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai đều thọ ký cho họ, quá năm trăm A tăng kỳ kiếp tất cả đều chứng vô thượng bồ đề.
Họ nghe Đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở bay vọt lên hư không cao bảy cây Đa La nói kệ ca ngợi Đức Phật:
Tiếng tăm lớn vô lượng
Vững vàng như Tu Di
Đức Phật nhất thiết trí
Hay diễn các công đức
Phật nhãn đều thấy rõ
Dường như Mặt Trời sáng
Tôn nghiêm giữa đại hội
Tôi lạy chân Thế Tôn
Vô lượng đức tư lương
Phật trí đã viên mãn
Chúng tôi cũng sẽ được
Thế Tôn vô thượng trí
Áng sáng lớn vô thượng
Chiếu khắp Cõi Trời người
Khai thị các pháp Tạng
Biển công đức vô biên
Trí huệ thường không mất
Chánh giác rời phiền não
Huệ quang đại tinh tiến
Tôi lễ công đức sâu
Đại long đại trang nghiêm
Tướng tốt để nghiêm thân
An trụ như Tu Di
Nhiếp chúng không ai sánh
Làm Đạo Sư cho đời
Chói che hàng Trời người
Diễn thuyết vô sở úy
Tôi lễ thắng trượng phu
Thế Tôn đại tịch mặc
Biển vô biên công đức
Khai pháp nhãn cho tôi
Khiến tôi mặc giáp trụ
Nhưng tôi tất cả lúc
Là người ngồi đại thừa
Thường ở nơi đạo này
Hướng đến không còn thừa
Đức Mưu Ni dũng mãnh
Biết rõ tất cả pháp
Trong đời không ai hơn
Chúng tôi đều quy mạng.
Này Vô Biên Huệ! Lúc đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai nói pháp ấy thành thục vô lượng vô số chúng sanh. Từ đó về sau, Tỳ Kheo Nhất Thiết Nghĩa Thành và quyến thuộc cúng dường phụng thờ vô lượng vô số Chư Phật, quá năm trăm A tăng kỳ kiếp chứng vô thượng bồ đề hiệu là Siêu Vô Biên Cảnh Giới Vương Như Lai.
Quốc Độ của Đức Phật ấy, từ công đức đến rộng lớn đều đồng với Thế Giới Quang Minh của đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai.
Chúng Thanh Văn cũng số vô lượng. Các Phu Nhân và các Vương Tử quyến thuộc cũng quá năm trăm A tăng kỳ kiếp chứng vô thượng bồ đề.
Này Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ ngồi Đại Thừa ở trong đạo ấy cầm đuốc đại pháp, làm ánh sáng đại pháp, phóng tia sáng đại pháp, dựng tràng đại pháp, đánh trống đại pháp, ngồi thuyền đại pháp đễ nhiếp đại pháp mà hướng đến, đi chỗ đi của Đại Bồ Tát, tuôn pháp vũ để nhuần ướt chúng sanh đều làm cho vui mừng, dũng mãnh tinh tiến hướng đến vô thượng bồ đề.
Này Vô Biên Huệ! Lúc an trụ đạo ấy, Đại Bồ Tát được ánh sáng pháp. Do ánh sáng ấy nên thấy được duyên khởi của tất cả pháp tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi.
Chẳng ở trong sắc mà thấy có sắc, chẳng ở trong thọ tưởng hành thức mà thấy có thọ tuởng hành thức. Chẳng ở trong thức mà thấy có thức khác với duyên khởi của thức. Biết rõ tướng của thức, tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi chỉ thuộc các duyên, thấy duyên hòa hiệp, các duyên cũng là không, là vô tướng, là vô khởi.
Lúc thấy như vậy, chẳng ở trong nhãn căn mà thấy có nhãn căn, tỷ, thiệt, thân và ý căn cũng vậy. Chẳng ở trong ý căn thấy có ý căn khác với duyên khởi của ý căn. Biết rõ tướng của ý căn, tự tánh vốn không, tự tánh vô tướng, tự tánh vô khởi.
Nhẫn đến địa giới, hỏa giới, phong giới, không giới, Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới không có tác giả, không có thọ giả.
Chẳng ở chút pháp nào thấy có chút pháp khác với duyên mà sanh khởi. Đều thuộc các nhân duyên tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi. Tánh của nhân duyên cũng là không, là vô tướng, là vô khởi.
Này Vô Biên Huệ! Đó là lúc an trụ nơi đạo ấy, Chư Đại Bồ Tát quan sát duyên khởi. Quan sát như vậy rồi có thể dùng trí huệ ở trong duyên khởi chứng được chân thiệt tế.
Do nơi ánh sáng tất cả pháp ấy mà mười Phật trí lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi đại hỉ đại xả, nhẫn đến tất cả Phật Pháp đều được chóng viên mãn.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Bồ Tát người vô úy
Hay an trụ như vậy
Làm ánh sáng đại pháp
Diệu trí để hướng đến
Dựng cao tràng đại pháp
Tràng này không có trên
Trong tất cả Phật Pháp
Chánh niệm để hướng đến
Trí huệ khéo du hí
Pháp thí cho chúng sanh
Tuôn trận mưa đại pháp
Vô úy để hướng đến
Đem pháp nhuần chúng sanh
Đều làm cho vui mừng
Do đây các Bồ Tát
Diệu thiện để hướng đến
Chư Bồ Tát như vậy
Được ánh sáng đại pháp
Hay ở trong chánh pháp
Dũng mãnh khéo an trụ
Do ánh sáng pháp này
Biết rõ tất cả pháp
Do các duyên sanh khởi
Tất cả không cứng chắc
Các pháp tự tánh không
Tự tánh không có tướng
Tự tánh không có sanh
Tự tánh không có thể
Các pháp do các duyên
Hòa hiệp mà chúng khởi
Vì các duyên hòa hiệp
Tự tánh vô sở hữu
Bồ Tát hay quan sát
Rõ các duyên cũng không
Các duyên tự tánh không
Tự tánh không có tướng
Cũng không có sanh khởi
Cũng chẳng có sở tác
Người quan sát như vậy
Siêng tu tập nơi pháp
Vì duyên khởi không thể
Các duyên chẳng phải duyên
Đúng lý quán như vậy
Hay biết tất cả pháp
Quán những sắc thọ tưởng
Hành thức cũng như vậy
Đều do các nhân duyên
Mà các uẩn sanh khởi
Các uẩn không có thiệt
Vì tánh bổn lai không
Tánh không nên không tướng
Tất cả không có khởi
Các uẩn xa rời tướng
Rời tướng thì vô sanh
Không sanh thì không diệt
Tướng các uẩn như vậy
Không tướng vọng có tướng
Tướng ấy từ đâu có
Vì các pháp không thể
Uẩn ấy cũng không tánh
Giới và xứ cũng vậy
Tất cả do duyên khởi
Tự tánh bổn lai không
Không tướng không có thể
Trong tất cả các pháp
Pháp thể bất khả đắc
Biết rõ tất cả pháp
Người tư duy danh nghĩa
Cõi Dục Sắc Vô Sắc
Tất cả do duyên khởi
Tự tánh bổn lai không
Không tướng cũng không thể
Xem trí năng quán ấy
Đâu biết được cảnh ấy
Trí ấy và cảnh ấy
Thường xa rời tự tánh
Sở khởi và các duyên
Hai thứ đều vô tác
Có thể biết như vậy
Đây là tướng chân thiệt
Không tướng đem tướng nói
Bồ Tát do đây chứng
Mà cũng chẳng phân biệt
Là tướng hay vô tướng
Người thiện trí như vậy
Thấy được tướng chân thiệt
Ở trong các pháp giới
Chẳng thấy chút pháp tướng
Các pháp và pháp giới
Cả hai đều vô tướng
Các pháp rời xa tướng
Gọi đó là pháp giới
Nói tên là pháp giới
Không giới không phi giới
Dầu gọi là pháp giới
Nhưng thiệt bất khả đắc
Lúc tư duy nghĩa ấy
Chẳng nhớ bất khả đắc
Vì rời các phân biệt
Được ánh sáng đại pháp
Vì các pháp không tánh
Ánh sáng cũng không tánh
Vì quán sát như vậy
Lại được ánh sáng pháp
Chẳng thấy trí năng quán
Thấy ấy cũng chẳng thấy
Vì thấy pháp hư vọng
Gọi đó là chánh quán
Ánh sáng bất tư nghị
Vô biên và vô lượng
Thấy các pháp đều không
Gọi là chẳng phân biệt
Nếu thấy pháp có tướng
Người thường không chứng nhập
Nghe tịnh pháp âm này
Phải sanh lòng vui mừng
Nếu thấy pháp không sanh
Người được không phân biệt
Nghe tịnh pháp âm này
Vắng lặng được an lạc
Nếu người thuở mạt thế
Được nghe pháp vô thượng
Nên biết chúng sanh ấy
Chứa công đức đã lâu
Người thuở mạt thế sau
Được nghe pháp vô thượng
Phải ở trong pháp ấy
Mau chóng để hướng đến.
Lại này Vô Biên Huệ! Lúc Chư Đại Bồ Tát quan sát tất cả pháp như vậy, thì ở nơi các pháp được ánh sáng pháp. Chẳng ở trong không mà thấy không, cũng chẳng rời ngoài không mà thấy không, chẳng thấy có chút pháp tương ưng với không.
Nếu đã chẳng tương ưng, thì chẳng đem không để không, chẳng thấy không cũng chẳng thấy chẳng không, cũng chẳng dùng thấy để quan sát tất cả pháp.
Lúc thấy như vậy, thì chẳng ở vô tướng mà thấy vô tướng, chẳng ngoài vô tướng mà thấy vô tướng, cũng không có chút pháp cùng vô tướng tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng ở vô tướng dùng vô tướng để thấy.
Chẳng ở hữu tướng dùng hữu tướng để thấy. Chẳng phải hữu tướng để thấy, chẳng phải vô tướng để thấy. Vô sanh và vô tác cũng như vậy.
Chẳng ở trong tận mà thấy tận, cũng chẳng khác tận mà thấy tận. Chẳng thấy có chút pháp cùng với tận tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng tận để thấy. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng vô tận để thấy. Chẳng tận để thấy, chẳng phải vô tận để thấy.
Lúc quan sát như vậy, Chư Đại Bồ Tát không có chút pháp hoặc thấy được hoặc chẳng thấy được, hoặc hiển rõ được hoặc chẳng hiển rõ được, hoặc hướng đến được hoặc chẳng hướng đến được, hoặc biết rõ được hoặc chẳng biết rõ được.
Này Vô Biên Huệ! Đó là Đại Bồ Tát an trụ nơi ánh sáng đại pháp của đạo ấy. Vì ánh sáng đại pháp nên thấy tất cả pháp đều không có ngằn mé, đối với mé với giữa cung không có chấp kiến. Vì không chấp kiến nên ở trong Phật Pháp mà hướng đến vậy.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Chẳng nơi không thấy không
Chẳng khác không thấy không
Người thấy được như vậy
Gọi đó là thấy không
Chẳng an trụ chút pháp
Cũng chẳng thấy chút pháp
Tương ưng với không ấy
Hoặc là chẳng tương ưng
Không do tự tánh không
Nơi không vô sở thủ
Do vì vô sở thủ
Biết được tất cả pháp
Nơi thấy vô sở thủ
Nơi quán vô sở thủ
Biết được thấy và quán
Cả hai đều chẳng thọ
Nơi thấy đều thanh tịnh
Nơi quán bất khả đắc
Quán các pháp như vậy
Rốt ráo vô sở chấp
Chẳng dùng vô tướng thấy
Chẳng dùng vô tường quán
Cũng chẳng ở vô tướng
Mà quán là vô tướng
Vô tướng vô sở hiển
Vô nguyện bất khả đắc
Không có chút pháp thể
Để mà tu tập được
Chẳng niệm nơi vô tướng
Cũng chẳng niệm vô nguyện
Vô phân biệt như vậy
Hiển rõ tướng vô tướng
Chẳng hướng đến vô tướng
Cũng chẳng vào vô tướng
Không đến không chỗ vào
Hiển rõ bình đẳng trụ
Người trí chẳng thấy tướng
Cũng chẳng thấy vô tướng
Chẳng thấy chẳng tư duy
Tất cả không hiển rõ
Nếu người thường tư duy
Không tư không hiển rõ
Nơi tư và hiển rõ
Mà an trụ bình đẳng
Như ở nơi vô tướng
Vô tác cũng như vậy
Dầu hiển không chỗ hiển
Vì tư duy biết rõ
Vô sanh cũng như vậy
Không có chút pháp sanh
Tự tánh vô sở hữu
Hiển rõ mà không thể
Hoặc sanh hoặc vô sanh
Hoặc tác hoặc vô tác
Cũng không chút chấp kiến
Người trí chẳng phân biệt
Niệm huệ không động lay
Hiển rõ không nghĩ chọn
Là có hay không thể
Bình đẳng rời các tánh
Chẳng nơi tận thấy tận
Cũng chẳng thấy vô tận
Hiển rõ không chỗ thấy
Tận trí không gì trên
Hoặc tận hoặc vô tận
Cả hai chẳng phân biệt
Do vì vô phân biệt
Trụ vô niệm bình đẳng
Nơi tận thấy vô tận
Cũng không thấy vô tận
Như vậy lúc thấy tận
Chẳng chấp tận vô tận
Nếu nơi tận vô tận
Tất cả không chỗ chấp
Do vì không chổ chấp
Nên tận trí thường tỏ
Cảnh giới của tận trí
Sở đắc của vô úy
Vì hiển rõ pháp ấy
Bồ Tát khéo an trụ.
Lúc ấy đại chúng lại có Đại Bồ Tát tên là Thắng Huệ từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chư Đại Bồ Tát vì muốn nhiếp lấy nhất thiết trí mà khởi công tu hành. Vì khởi công tu hành nên được ánh sáng đại pháp. Ở nơi ánh sáng đại pháp không có chút pháp ấy được.
Vì ánh sáng pháp ấy nên biết rõ tất cả pháp, nào là hữu vi vô vi, thế gian xuất thế gian, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc hí luận hoặc không hí luận.
Bạch Đức Thế Tôn! Ánh sáng pháp ấy, đâu phải Chư Đại Bồ Tát chẳng tu hành mà sẽ được.
Đức Phật phán: Này Thắng Huệ! Chư Đại Bồ Tát không có chút tu hành, không có thắng tu hành, chẳng tùy tu hành, chẳng biến tu hành mà có thể được vô biên ánh sáng đại pháp.
Chư Đại Bồ Tát còn bất khả đắc, còn bất khả kiến thay, huống là Bồ Tát hạnh sẽ có được sẽ thấy được ư! Thế sao lại thấy bao nhiêu kiếp tu hành có thể được ánh sáng đại pháp.
Tất cả hành huệ của Đại Bồ Tát, sở hành thanh tịnh được ánh sáng pháp. Công hạnh của ánh sáng pháp chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng thì từ đâu thi thiết tất cả các công hạnh. Nhưng chỗ tu hành dầu chẳng phải thi thiết công hạnh mà cũng chẳng rời lìa.
Này Thắng Huệ! Lúc an trụ nơi hạnh ấy, Chư Đại Bồ Tát xả bỏ tất cả hạnh không chỗ chấp lấy. Người đủ công hạnh ấy, chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng, không có tướng không có hành mới có thể được ánh sáng đại pháp ấy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bi Hoa - Phẩm Năm - Phẩm Bố Thí Ba La Mật - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh ưu Bà Tắc Giới - Phẩm Mười Một - Trang Nghiêm Mình Và Người
Phật Thuyết Kinh đức Phật Khất Thực Trong đời Quá Khứ
Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Hai - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Như Lai Hưng Hiển - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Bảy - Phẩm Thân Niệm Xứ - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Kim Cang Tam Muội - Phẩm Hai - Phẩm Pháp Vô Tướng
Phật Thuyết Kinh Vô Cấu Xứng - Phẩm Hiền Bày Phương Tiện Thiện Xảo Bất Khả Tư Nghì