Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Hai - Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Thứ Bốn - Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ MƯỜI HAI
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
PHẨM THỨ BỐN
PHẨM NHƯ LAI BẤT TƯ NGHÌ TÁNH
PHẦN BỐN
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Do đây hữu tình khởi tạp nhiễm
Do đây hữu tình được thanh tịnh
Đại Hùng biết rõ như vậy rồi
Rộng vì tuyên dương pháp vi diệu
Do tác ý trái lý làm nhân
Vô minh làm duyên sanh tạp nhiễm
Vô minh làm nhân hành làm duyên
Nhẫn đến xoay vần sanh các khổ
Tát ý trái lý và vô minh
Làm căn bổn sanh các chi kia
Chư Phật biết rõ như thiệt rồi
Tùy chỗ đáng nên tuyên diệu pháp
Tất cả cội gốc của tạp nhiễm
Đó là nghiệp hành và vô minh
Lại từ đây làm duyên cho thức
Triển chuyển như vậy sanh các khổ
Do chỗ nói tùy thuận âm kia
Và do nội tâm quán đúng lý
Do hai nhân hai duyên đây
Tất cả chúng sanh chứng thanh tịnh
Do chỉ tác ý đúng lý nhân
Và do chánh quán làm duyên kia
Mà các chúng sanh chứng giải thoát
Đại Sư đều biết rõ như thiệt
Hành giả an trụ giới thanh tịnh
Quán sát các pháp đều không tịch
Và khéo tu tập môn giải thoát
Xa rời sanh tử bức ngặt khổ
Như đây Chư Phật thiệt biết rõ
Tất cả chúng sanh hạnh thanh tịnh
Không vô tướng nguyện giải thoát môn
Thiện thệ theo căn mà hiển thị
Độc Giác tối thắng và Thanh Văn
Thuận nghịch nhập xuất các tịnh lự
Như Lai tuyên bày chỗ chứng kia
Như có gai độc và oán thù
Định giải thoát của Chư Phật chứng
Rốt ráo không oán không gai độc
Phải biết bực thứ bảy của Phật
Không thiền định nào xô dẹp được.
Này Xá Lợi Phất! Đây gọi là chư định trí lực của Đức Như Lai. Do được trí lực thứ bảy này mà Đức Như Lai tuyên bố ta là bậc Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian đều chẳng chuyển được.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là túc trụ tùy niệm tác chứng trí lực của Đức Như Lai?
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng tùy theo chỗ ghi nhớ đều biết rõ như thiệt.
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai đùng như thiệt biết rõ vô lượng đời trước của Phật và của tất cả hữu tình khác. Hoặc ghi nhớ một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, đến câu chi na do tha trăm ngàn đời thảy đều có thể nhớ biết rõ.
Đức Như Lai lại nhớ biết rõ kiếp loài, kiếp thành, kiếp thành hoại, hoặc vô lượng kiếp hoại, vô lượng kiếp thành, vô lượng kiếp thành hoại. Hoặc nhớ biết rõ trăm câu chi kiếp, đến vô lượng trăm ngàn Câu chi na do tha kiếp.
Đức Như Lai có thể nhớ biết rõ đời trước của Phật đã từng ở tại xứ ấy, có tên họ ấy, dòng ấy, có sắc ấy tướng ấy, hình dạng ấy, sống bao lâu, khổ vui ra sao, từ chỗ ấy chết rồi sanh chỗ kia, từ chỗ kia chết rồi sanh xứ này. Vô lượng đời trước của mình và của kẻ khác, Đức Như Lai đều nhớ biết rõ từng chi tiết.
Lại này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ đúng như thiệt nghiệp nhân đời trước của tất cả hữu tình. Do nghiệp nhân ấy mà hữu tình đến sanh xứ này. Biết rõ nghiệp nhân ấy của họ rồi, Đức Như Lai theo đúng chỗ đáng nên dạy mà thuyết pháp cho họ.
Đức Như Lai biết rõ như thiệt tất cả hữu tình đời trước có tâm niệm nối tiếp không hở, duyên theo cảnh như vậy mà sanh tâm như vậy, do cảnh duyên ấy không đủ nên tâm ấy dứt.
Lại này Xá Lợi Phất! Hoặc có một hữu tình tâm niệm xoay đổi tuần tự mãi mãi nối tiếp như vậy cả hằng sa kiếp, lời nói chẳng thể kể xiết, cho đến tất cả hữu tình đều có tâm niệm như vậy, Đức Như Lai nhớ đến, liền có thể biết rõ như thiệt tất cả tâm niệm ấy.
Lại này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai y theo tâm niệm xoay đổi của tất cả hữu tình đến tận hậu tế cả câu chi kiếp kể nói chẳng hết được, mà trí lực của Phật cũng không cùng tận.
Trí lực túc trụ tùy niệm các chứng của Phật chẳng thể nghĩ bàn, không gì bằng, không gì sánh, là vô lượng vô số chẳng thể tuyên nói, lại chẳng thể nói là có biên tế.
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai dùng thần lực Phật làm cho hữu tình nhớ biết đời trước rồi bảo họ rằng: Nay ngươi nên nhớ đời trước đã trồng căn lành như vậy, hoặc ở chỗ Độc Giác, hoặc nói chánh pháp mà trồng căn lành. Các căn lành như vậy ngươi phải nhớ biết hết. Các hữu tình ấy nhờ thần lực Phật nhớ đến đều biết rõ vô lượng căn lành đời trước của mình.
Đức Như Lai dùng thần lực làm cho hữu tình nhớ biết thiện căn đời trước rồi theo đúng chỗ nên dây mà thuyết pháp cho họ.
Này Xá Lợi Phất! Hoặc có hữu tình được chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Giác tùy theo sở nguyện mà cầu giải thoát: Hoặc theo Thanh Văn thừa, hoặc theo Độc Giác thừa, hoặc phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, Đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
Này Xá Lợi Phất! Trí lực túc trụ tùy niệm tác chứng của Phật chẳng thể nghĩ bàn, là vô lượng vô số vô biên vô tế bằng với hư không. Nếu có ai muốn suy tìm biên tế trí lực của Phật, thì chẳng khác gì người muốn suy tìm biên tế của hư không.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe trí lực túc trụ chẳng thể nghĩ bàn như hư không như vậy rồi, liền tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi, vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lai nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Vô lượng câu chi na do kiếp
Trí lực của Phật đều biết rõ
Phật nhớ đời trước mình và người
Như xem trái cây trên bàn tay
Nhớ biết rõ họ tên sắc tướng
Sống chết xứ kia sanh xứ này
Hữu tình có đủ nghiệp nhân ấy
Biết chỗ đáng dạy mà thuyết pháp
Vô biên vô tế đời quá khứ
Bao nhiêu tâm niệm của hữu tình
Tâm ấy nối tiếp sanh niệm ấy
Trí lực của Phật biết rõ cả
Một hữu tình cho đến tất cả
Tâm niệm nối tiếp không ngừng hở
Đã qua số kiếp như hằng sa
Không thể dùng lời kể nói hết
Nhẫn đến câu chi số kiếp sau
Phật biết rõ cả tâm niệm họ
Trí lực Như Lai vẫn vô tận
Nên gọi trí Phật như biển cả
Tất cả hữu tình tín nguyện lành
Đã từng cúng dường Chư Phật Thánh
Phật dùng thần lực gia hộ họ
Khiến nhớ tịnh hạnh đã từng tu
Như Lai biết rõ các hữu tình
Quá khứ đã tu các phước hạnh
Biết họ đã trụ trí ba thừa
Giải thoát bất thối vô thượng đạo
Trí biết quá khứ vô biên tế
Chẳng thể nghĩ bàn chẳng sánh bằng
Phật trí lực túc trụ thứ tám
Chư Đại Bồ Tát tin nhận được.
Này Xá Lợi Phất! Đây gọi là trí lực túc trụ của Phật. Do được trí lực thứ tám này nên Đức Như Lai tuyên bố ta ở ngôi Thế Tôn chuyển pháp luân lớn thanh tịnh mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là trí lực thiên nhãn thông tác chứng của Như Lai?
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng trí lực thiên nhãn thanh tịnh vô thượng vượt hơn tất cả mà nhìn xem các loài hữu tình chết nơi đây sanh về kia, hoặc liệt hoặc thắng, hoặc nhan sắc đẹp hay xấu, hoặc đến cõi lành, hoặc qua loài ác, đúng như nghiệp nhân mà họ đã gây nên.
Tất cả tướng sai khác như vậy, Đức Như Lai đều thầy rõ đúng như thiệt. Đức Như Lai lại thấy rõ nghiệp hành của các hữu tình gây tạo. Các hữu tình gây tạo nghiệp xấu ác nơi thân như vậy, nơi khẩu như vậy, nơi ý như vậy, sanh tà kiến chê bai Hiền Thánh.
Do nghiệp nhân tà kiến như vậy nên khi chết họ đọa vào các ác đạo hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh vào súc sanh, hoặc sanh vào loài quỷ.
Đức Như Lai cũng thấy biết rõ các hữu tình gây tạo nghiệp lành tốt nơi thân, nơi khẩu, nơi ý như vậy, chẳng chê bai Hiền Thánh, tu tập chánh kiến.
Những hữu tình này nương nơi nghiệp nhân chánh kiến như vậy, sau khi chết sanh về cõi lành, hoặc sanh lên Trời, hoặc sanh trong Thế Giới An Lạc.
Đức Như Lai lại dùng thiên nhãn thanh tịnh xem thấy Thế Giới nhiều thứ tướng dạng của Chư Phật khắp mười phương hơn số cát Sông Hằng, hết hư không tế, tột lượng pháp giới, chẳng thể tuyên nói được. Hoặc thầy có Quốc Độ bị hỏa tai, có Quốc Độ đương hoai, có Quốc Độ đương thành.
Hoặc thấy các hữu tình lúc chết, lúc sanh. Hoặc thấy Chư Đại Bồ Tát từ cung Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, hoặc thấy có Bồ Tát xuất thai, hoặc thấy mỗi phương đều đi bảy bước, hoặc thấy đương vào ở nội cung, hoặc thấy đương xuất gia khổ hạnh, hoặc thấy thành Vô Thượng Bồ Đề, hoặc thấy đương chuyển pháp luân, hoặc thấy có Chư Phật xả thọ mạng nhập đại Niết Bàn.
Đức Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh hoặc thấy trong các Thế Giới mười phương Chư Thanh Văn rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc thấy Chư Độc Giác hiện thần thông báo đáp phước thí chủ rồi nhập Niết Bàn. Lại có những thứ mà các loài hữu tình chẳng thấy được, nhưng đều bị thiên nhãn của Như Lai thấy suốt rõ.
Có những thứ mà thiên nhãn của ngũ thông Tiên Nhân, của Thanh Văn, của Độc Giác và của Bồ Tát đều chẳng thấy được, nhưng thiên nhãn của Phật đều thấy rõ ràng.
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh quan sát các loài hữu tình nơi vô lượng Thế Giới:
Những chúng sanh nào là của Đức Như Lai hóa độ, những chúng sanh nào thấy Như Lai rồi mới hóa độ được. Bấy giới Đức Như Lai tùy chỗ đáng được lợi ích mà hiện thân ở trước họ làm cho họ được tỏ ngộ. Còn những chúng sanh khác thì không hay biết.
Này Xá Lợi Phất! Trí lức thiên nhãn tùy niệm tác chứng của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có biên tế đồng với hư không. Những kẻ tìm cầu biên tế của thiên nhãn Như Lai thì chẳng khác người tìm biên tế của hư không.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe trí lực chẳng thể nghĩ bàn như hư không này rồi liền tin nhận vâng thờ vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Thiên nhãn của Phật rất thanh tịnh
Do vô lượng kiếp tu tịnh nghiệp
Phật dùng thiên nhãn thấy mười phương
Vô lượng Thế Giới Phật thanh tịnh
Hoặc hoại, hoặc thành, hoặc thành hoại
Nhẫn đến hoặc trụ, hoặc hỏa tai
Hoặc có Phật, hoặc không có Phật
Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ
Hữu Tình nhiều loài khó nghĩ bàn
Nhẫn đến loài có sắc không sắc
Hoặc đọa loài ác sanh cõi lành
Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ
Hoặc thấy câu chi Phật hiện tại
Hoặc thấy Như Lai nhập Niết Bàn
Cũng thấy Thanh Văn hoặc Duyên Giác
Chứng quả hiện thông đến phước thí
Có chư Bồ Tát độ chúng sanh
Hoặc đến bực gần Vô Thượng Giác
Ở ngôi Như Lai không chướng ngại
Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ
Thiên nhãn của Phật rất thanh tịnh
Thấy rõ các loài tột vi tế
Trí lực thứ chín chẳng nghĩ bàn
Chư Đại Bồ Tát hay tin nhận.
Này Xá Lợi Phất! Đây gọi là trí lực thiên nhãn tùy niệm tác chứng. Do trí lực thứ chín này mà Đức Phật tuyên bố ta là bậc Thế Tôn chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng chuyển được.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là trí lực lậu tận tác chứng của Như Lai?
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết rõ như thiệt là hết các lậu là vô lậu, tâm giải thoát, huệ giải thoát, tự nhiên thông đạt, tác chứng đầy đủ mà an trụ ngôi vị ấy biết rõ đúng thiệt ta đã dứt hết dòng sanh, đã nên phạm hạnh, việc làm đã xong chẳng còn thọ sanh thân sau.
Này Xá Lợi Phất! Trí lực vô lậu của Đức Như Lai rất thanh tịnh sáng suốt dứt hẳn tất cả tập khí nối tiếp. Hàng Thanh Văn cũng như hàng Độc Giác dầu là vô lậu mà chỉ dứt trừ được phần ít tập khí, rời xa đại bi và các biện tài vô úy.
Chỉ có Đức Như Lai các lậu dứt hẳn mà đủ cả Phật Pháp vi diệu, dứt trừ tất cả tập khí nối tiếp, đủ đức đại bi, biện tài, vô úy bao trùm các hữu tình trong tất cả thế gian dầu chẳng hở một sát na tâm niệm mà trí lực của Như Lai vẫn luôn thanh tịnh vô lậu.
Tại sao vậy?
Vì Đức Như Lai không có tập khí nghiệp, tập khí phiền não, tập khí quên mất oai nghi.
Này Xá Lợi Phất! Như hư không luôn trong sạch chẳng chung lộn với tất cả bụi khói mây mù. Cũng vậy trí lực vô lậu của Đức Như Lai chẳng chung lộn với tất cả phiền não tập khí.
Này Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai an trụ nơi trí lực vô lậu ấy rồi có thể nói pháp vô lậu vô chấp cho những chúng sanh hữu lậu hữu chấp. Các phiền não các chấp trước của tất cả chúng sanh đều từ hư vọng phân biệt khởi lên.
Đức Như Lai quan sát biết rõ như vậy rồi, vì muốn họ chẳng còn khởi lên các phiền não các chấp trước, nên theo đúng chỗ đáng dạy mà dùng các thí dụ để thuyết pháp cho họ biết rõ thiệt phiền não đều hư vọng. Vì biết là hư vọng mà họ chẳng chấp lấy. Vì chẳng chấp lấy mà rốt ráo họ chứng Niết Bàn.
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ đúng thiệt tất cả hữu tình các phiền não khởi diệt, các phiền não hiện hành. Biết rõ rồi, Đức Như Lai theo đúng chỗ nên dạy mà thuyết pháp.
Này Xá Lợi Phất! Trí lực vô lậu tác chứng của Đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có biên tế, đồng với hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu biên tế trí lực vô lậu của Như Lai, thì chẳng khác gì người tìm biên tế của hư không.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe trí lực vô lậu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai rồi liền tin nhận vâng thờ vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Trí Phật vô lậu rất thanh tịnh
Rộng lớn vô lượng không chướng ngại
Do thành trí lực thứ mười này
Mà nói đạo Bồ Đề tịnh diệu
Trí vô lậu của hàng Thanh Văn
Còn thừa tập khí theo ràng buộc
Trí lực vô lậu của Đạo Sư
Tất cả tập khí như tro tàn
Có người chứng bực Duyên Giác thừa
Rời xa đại bi với biện tài
Chỉ có Chư Phật trí vô lậu
Đầy đủ đại bi với biện tài
Chư Phật ở nơi trí vô lậu
Biết rõ tướng lậu của chúng sanh
Đều từ hư vọng phân biệt sanh
Mà họ chưa biết chân lý ấy
Đại bi của Phật dạy bảo họ
Là vô thường, bất tịnh, vô ngã
Họ thấy các pháp không thể tánh
Sẽ chứng quả Như Lai tịch tịnh
Các pháp không ngã không chúng sanh
Không thọ không nhân không tác giả
Hữu tình phân biệt hư vọng chấp
Phật khởi lòng bi cứu thoát họ
Từ bi của Phật chẳng mỏi nhàm
Trí lực luôn tròn chẳng quên mất
Thế nên Chư Phật thường phương tiện
Vì độ chúng sanh mà thuyết pháp
Trí lực thứ mười dẹp phục cả
Không có biên tế đồng hư không
Vì Phật thường ở trí lực này
Mà vô lượng pháp đời luôn có.
Này Xá Lợi Phất! Đây là trí lực vô lậu của Đức Như Lai. Do thành tựu trí lực thứ mười này mà Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác tự tuyên bố ta ở ngôi Thế Tôn, ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian, Trời, Người, Sa Môn, Bà La Môn, Ma Vương, Phạm Vương đều chẳng chuyển được đúng pháp.
Này Xá Lợi Phất! Do nghe công đức chẳng thể nghĩ bàn của Đức Như Lai mà Chư Đại Bồ Tát đối với mười trí lực ấy tin nhận vâng làm, tâm niệm thanh tịnh không lầm không nghi càng vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đại Bồ Tát đối với đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai mà tin nhận vâng thờ tâm chí thanh tịnh không lầm không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ?
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác có bốn đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn. Do thành tựu bốn vô úy này mà Đức Như Lai ở giữa đại chúng tự tuyên bố ta ở ngôi Thế Tôn như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian, Trời, Người, Ma Vương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn đều chẳng chuyển được đúng pháp.
Này Xá Lợi Phất! Những gì gọi là bốn đức vô sở úy?
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực Vô Thượng nên ở giữa đại chúng tự tuyên bố ta là bậc Đẳng Chánh Giác.
Trong đại chúng ấy chẳng thấy có ai hoặc người hoặc Trời mà có thể ở trước Đức Như Lai chỉ trích rằng đối với pháp ấy, Ngài chẳng phải là Đẳng Chánh Giác.
Này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đức Như Lai có hiệu là Đẳng Chánh Giác?
Đối với tất cả các pháp, Đức Như Lai có thể bình đẳng Chánh Giác, không có gì là chẳng bình đẳng. Hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp Thánh Nhân, hoặc pháp Chư Phật, hoặc pháp hữu học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp Độc Giác, hoặc pháp Bồ Tát đều bình đẳng bình đẳng.
Hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc có tội, hoặc vô tội, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, tất cả pháp như vậy, Đức Như Lai đều có thể bình đẳng Chánh Giác, vì thế nên gọi Phật là bậc Đẳng Chánh Giác.
Này Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là tánh bình đẳng?
Tự thể của các kiến thức cùng với tánh không kia, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của sắc tướng cùng với vô tướng kia, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của ba cõi cùng với vô nguyện kia, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của pháp sanh cùng với vô sanh kia, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của pháp khởi cùng với vô khởi kia, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của tánh tham cùng với vô tham kia, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của tam thế cùng chân như kia, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của vô minh hữu ái cùng với minh giải thoát, tánh nó bình đẳng.
Tự thể của sanh tử lưu chuyển cùng với Niết Bàn tịch tịnh, tánh nó bình đẳng.
Vì đối với tất cả phát Đức Như Lai đều bình đẳng Chánh Giác nên gọi Đức Phật là bậc Đẳng Chánh Giác. Đức vô úy ấy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, Đức Như Lai lại dùng đại bi để làm phương tiện.
Chân như bình đẳng, chân tánh là như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, là tánh không che tội, là tánh không bố úy, là tánh không lui sụt, là tánh không trái cãi.
Do cớ ấy mà sáng rỡ cả đại chúng, hay làm cho họ vui đẹp, toàn thân thơ thới, sanh lòng tin thanh tịnh mà vui mừng hớn hở.
Này Xá Lợi Phất! Tất cả chúng sanh ở thế gian không ai có thể đối với đức vô úy của Như Lai mà sanh sự trái cãi.
Tại sao?
Vì đức vô úy của Như Lai không trái cãi được. Như tánh bình đẳng ở pháp giới tánh lưu bố cùng khắp trong các Thế Giới không ai trái hại được.
Như đức vô úy của Như Lai nơi tất cả pháp thậm thâm vi tế khó biết mà có thể đẳng chánh giác được, Đức Như Lai an trụ đại bi như vậy dùng các thứ ngôn ngữ âm thanh, các thứ pháp môn mà khai thị pháp vi diệu cho các hữu tình. Nếu ai có thể y theo pháp ấy mà tu tập công hạnh viễn ly thì mau hết khổ.
Nếu có hữu tình chẳng phải bực Đại Sư mà tự xưng là Đại Sư, chẳng phải Đẳng Chánh Giác mà tự xưng là Đẳng Chánh Giác, do sức vô úy chẳng nghĩ bàn của Như Lai khiến các hữu tình ấy đều bị che chói mất ngạo mạn phải bỏ chạy trốn.
Này Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế đồng như hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu biên tế của đức vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu biên tế của Như Lai.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe nói đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Này Xá Lợi Phất! Đây gọi là đức vô úy Chánh Đẳng Giác. Do thành tựu đức vô úy thứ nhất này mà Đức Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được đúng pháp.
Lại này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì đã thành tựu trí lực vô thượng nơi ở giữa đại chúng tuyên bố nay đây ta đã hết tất cả phiền não tập khí.
Trong đại chúng ấy không có ai hoặc người hoặc Trời có thể ở trước Đức Như Lai mà chỉ trích rằng Ngài còn có phiền não ấy chưa dứt.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là tánh phiền não dứt hết của Đức Như Lai?
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở nơi Dục Giới phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí tham dục.
Đức Như Lai ở nơi sắc Vô Sắc Giới phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí sân khuể.
Đức Như Lai ở nơi vô minh phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí si mê.
Đức Như Lai ở nơi các kiến phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí phiền não hiện hành.
Vì cớ như vậy nên gọi Đức Như Lai là phiền não đã hết.
Này Xá Lợi Phất! Thuyết pháp như trên ấy là y cứ nơi thế tục chớ chẳng phải thắng nghĩa. Trong thắng nghĩa không có một pháp nào ở trước thánh trí có thể biết rõ, có thể dứt hẳn, có thể tu tập, có thể chứng nhập.
Tại sao vậy?
Này Xá Lợi Phất! Nói là dứt hết đó chưa bao giờ chẳng dứt hết, tánh vốn rốt ráo hết chẳng do đối trị mà nói là hết. Tánh như thiệt là hết. Vì tánh như thiệt là hết nên không có pháp nào bị hết. Vì không pháp bị hết thì chính là vô vi. Vì vô vi nên không sanh không diệt cũng không có trụ.
Thế nên nói rằng Đức Như Lai xuất thế. Nếu không xuất thế thường trụ pháp tánh thường trụ pháp giới thì thánh trí huệ chuyển vận trong ấy. Dầu chuyển vận như vậy ma không có chuyển không không có hoàn.
Này Xá Lợi Phất! Do pháp môn thắng nghĩa ấy nên không có các phiền não, cũng không có phiền não hết mà có thể chứng đắc. Đức Như Lai an trụ nơi đại bi như vậy rồi vì các hữu tình mà tuyên nói pháp phiền não dứt hết.
Lại này Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lại dùng đại bi để làm phương tiện, là chân như bình đẳng, là chân tánh, là tánh như chẳng phải là tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che tội, tánh không bố úy, tánh không lui sụt, tánh không trái cãi.
Vì cớ ấy nên làm sáng rỡ đại chúng khiến họ vui đẹp toàn thân thơ thới sanh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.
Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh trong đời không có ái đối với đức vô úy của Như Lai mà có thể sanh sự trái cãi.
Tại sao?
Vì Đức Như Lai vô úy ấy chẳng trái cãi được. Chân như bình đẳng ở trong pháp giới tánh lưu bố cùng khắp trong các Thế Giới không ai trái hại được.
Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn như vậy, là vô lượng vô số không có biên tế thành tựu pháp vi diệu. Do Đức Như Lai dùng đại bi huân tập nơi tâm mà vì các chúng sanh nói pháp phiền não dứt hết cho họ dứt hẳn các phiền não.
Này Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế như hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu biên tế ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm biên tế của hư không.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe Đức Như Lai tuyên nói đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở pháp ý tưởng hy kỳ.
Đây gọi là đức vô úy vô lậu. Do thành tựu đức vô úy thứ hai ấy, Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng như sư tử rống tự tuyên bố ta là Thế Tôn chuyển pháp luân lớn, tất cả Trời người thế gian chẳng chuyển được.
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng nên ở giữa đại chúng tuyên bố: Phật nói pháp chướng đạo thì quyết định là pháp chướng đạo giải thoát. Trong thế gian hoặc người hoặc Trời không có ai ở trước Đức Như Lai mà có thể chỉ trích rằng Ngài nói pháp chướng đạo ấy chẳng chướng đạo được.
Này Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là pháp chướng ngại đạo?
Này Xá Lợi Phất! Có một pháp hay làm chướng ngại, đó là tâm chẳng thanh tịnh.
Lại có hai pháp hay làm chướng ngại, đó là vô tàm và vô úy.
Lại có ba pháp hay làm chướng ngại, đó là thân ác hành, ngữ ác hành và ý ác hành.
Lại có bốn pháp hay làm chướng ngại, đó là do tham dục mà làm sự chẳng nên làm, do sân khuể mà làm sự chẳng nên làm, do si mê mà làm sự chẳng nên làm và do hãi sợ mà làm sự chẳng nên làm.
Lại có năm pháp hay làm chướng ngại, đó là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu.
Lại có sáu pháp hay làm chướng ngại, đó là chẳng kính Phật, chẳng kính pháp, chẳng kính Tăng, chẳng kính luật nghi, chẳng kính chánh định, chẳng kính chánh huệ.
Lại có bảy pháp hay làm chướng ngại, đó là mạn, thắng mạn, thắng thượng mạn, tăng thượng mạn, tà mạn, hạ mạn và ngã mạn.
Lại có tám pháp hay làm chướng ngại, đó là tà kiến, tà tư, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định.
Lại có chín pháp hay làm chướng ngại, đó là nơi chính thân mình ở trong ba đời quá khứ vị lai và hiện tại mà làm sự chẳng lợi ích rồi sanh sự não hại. Đối với chỗ mà mình mến thích ở trong ba đời mà làm sự chẳng lợi ích rồi sanh sự não hại. Đối với chỗ mà mình không mến thích ở trong ba đời mà làm sự chẳng lợi ích rồi sanh sự não hại.
Lại có mười pháp hay làm chướng ngại, đó là mười nghiệp đạo bất thiện. Đây là nói lược mười loại pháp hay làm chướng ngại. Vì muốn ngăn dứt hẳn các loại pháp chướng ngại ấy mà Đức Như Lai vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp.
Này Xá Lợi Phất! Nhẫn đến tất cả tác ý trái với chân lý tương ưng với các kiết sử, hoặc do nơi các pháp mà có quan niệm ưa ham tương ưng với điên đảo mà trái đạo giải thoát, có ái kiến chấp trước đối với pháp có mà ưa ham, nơi thân ngữ ý nghiệp có sự sở y, tất cả sự tướng ấy Đức Như Lai biết rõ là chướng ngại cả. Đã biết rõ rồi, Đức Như Lai nói là pháp hay chướng ngại.
Này Xá Lợi Phất! Đức vô úy ấy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lấy đại bi làm phương tiện, chân như bình đẳng là chân tánh như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh không đổi khác, tánh không che lỗi, tánh không hãi sợ, tánh không lui sụt, tánh không trái cãi.
Vì cớ ấy nên làm cho đại chúng sáng rỡ khiến họ vui đẹp toàn thân thơ thới sanh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.
Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh trong đời không có ai đối với đức vô úy của Như Lai mà có thể trái cãi.
Tại sao?
Vì đức vô úy của Như Lai chẳng trái cãi được, như tánh bình đẳng ở tánh pháp giới lưu bố cùng khắp trong các Thế Giới, không ai trái cãi được.
Vô úy ấy là vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn, không gì sánh bằng, chẳng thể tuyên nói, thành tựu pháp vi diệu. Nhưng do đại bi huân tập nơi tâm nên Đức Như Lai vì các hữu tình mà nói pháp chướng ngại, vì muốn họ ngăn dứt hẳn pháp chướng ngại ấy.
Này Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô lượng như hư không. Nếu kẻ muốn tìm cầu biên tế của đức vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm biên tế của hư không.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe Đức Như Lai tuyên nói đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy như hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ. Đây gọi là đức vô úy tuyên nói pháp chướng ngại.
Do Đức Như Lai thành tựu đức vô úy thứ ba ấy, ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được.
Lại này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng ở giữa đại chúng tuyên bố rằng Phật nói đạo chân chánh hết khổ của Thánh xuất thế đã tu, nếu hữu tình nào tu tập đạo ấy thì quyết định giải thoát. Trong đại chúng, hoặc người hoặc Trời không có ai ở trước Đức Như Lai mà có thể chỉ trích rằng Ngài nói đạo ấy chẳng giải thoát được.
Này Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là đạo của Thánh giải thoát?
Này Xá Lợi Phất! Có một pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo thanh tịnh giải thoát, đó là chánh đạo.
Lại có hai pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là xa ma tha và tỳ bát xá na.
Lại có ba pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là môn giải thoát không, môn giải thoát vô tướng và môn giải thoát vô nguyện.
Lại có bốn pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là duyên nơi thân để quán niệm, duyên nơi thọ để quán niệm, duyên nơi tâm để quán niệm và duyên nơi pháp để quán niệm.
Lại có năm pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là tín căn, cần căn, niệm căn, định căn và huệ căn.
Lại có sáu pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả và niệm Thiên.
Lại có bảy pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là niệm giác chi, trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỉ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi và xả giác chi.
Lại có tám pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là tám chi Thánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh niệm và chánh định.
Lại có chính thứ pháp căn bổn vui thích hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là duyệt, hỷ, khinh an, chỉ tức lạc, định, như thiệt trí, kiến, yểm ố và ly dục giải thoát.
Lại có mười pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là mười nghiệp đạo lành. Đức Như Lai vì các hữu tình tuyên nói pháp hành giải thoát của Thánh như vậy.
Này Xá Lợi Phất! Nhẫn đến tất cả những đạo pháp chánh thiện Bồ Đề, hoặc tương ưng với giới tụ, hoặc tương ưng với định tụ, hoặc tương ưng với huệ tụ, hoặc tương ưng với giải thoát tụ, hoặc tương ưng với giải thoát tri kiến tụ, hoặc tương ưng với thánh đế đều gọi là pháp hành hay giải thoát.
Lại này Xá Lợi Phất! Hay khéo giải thoát là nói chánh hạnh. Nói là chánh hạnh có nghĩa là ở trong pháp ấy không có một pháp nào hoặc tăng hoặc giảm hoặc lai hoặc khứ hoặc thủ hoặc xả.
Tại sao?
Vì chẳng phải người hành chánh hạnh mà hành một thứ giác phần. Nếu có thể đúng như thiệt mà thấy biết tất cả các pháp đều là tánh bất nhị, thì gọi đó là hạnh xuất ly của Thánh.
Này Xá Lợi Phất! Đức vô úy ấy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lấy đại bi làm phương tiện, chân như bình đẳng là chân tánh như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che lỗi, tánh chẳng lui sụt, tánh không hãi sợ, tánh chẳng trái cãi. Vì thế nên làm sáng rỡ đại chúng khiến họ vui đẹp toàn thân thơ thới sanh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.
Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh trong đời chẳng có ai đối với đức vô úy của Như Lai mà có thể tranh cãi.
Tại sao?
Vì đức vô úy của Như Lai chẳng tranh cãi được, tánh chân như bình đẳng ở tánh pháp giới lưu bố cùng khắp trong các Thế Giới không ai trái hại được.
Hạnh giải thoát của thánh như vậy vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn chẳng gì sánh bằng thành tựu pháp vi diệu chẳng tuyên nói được.
Nhưng vì đại bi huân tập nơi tâm nên Đức Như Lai khai thị diễn nói hạnh giải thoát của Thánh cho chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào hiểu rõ như thiệt tu hành chánh đạo, thì quyết định giải thoát mau rốt ráo hết khổ.
Này Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai vô biên vô tế như hư không. Nếu có kẻ nào muốn tìm cầu biên tế của đức vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu biên tế của hư không.
Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Đức Như Lai rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ. Đây gọi là đức vô úy nói đạo giải thoát của thánh.
Do Đức Như Lai thành tựu đức vô úy thứ tư ấy nên ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian hoặc người hoặc Trời, Ma Vương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn đều không thể chuyển đúng pháp được.
Này Xá Lợi Phất! Bốn đức vô úy ấy của Như Lai vô biên vô tế như hư không, tất cả chúng sanh không thể thấu được biên tế ấy. Chư Đại Bồ Tát nghe đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai như hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Tự nhiên chánh giác ngộ
Các pháp tánh bình đẳng
Như Lai thấy rõ pháp
Nên hiệu Đẳng Chánh Giác
Hoặc các pháp phàm phu
Pháp hữu học vô học
Pháp Độc Giác tối thắng
Phật Pháp đều bình đẳng
Tất cả pháp thế gian
Thiện, bất thiện, bất động
Và các pháp xuất thế
Đường Niết Bàn bình đẳng
Không, vô tướng, vô nguyện
Vô vi và hữu vi
Vô sanh và vô khởi
Đều thấy tánh bình đẳng
Biết tánh bình đẳng rồi
Theo chỗ đáng tuyên nói
Độ thoát các hữu tình
Đức Như Lai vô úy
Tự giải thoát ba cõi
Rồi khai thị giải thoát
Đức Như Lai Thế Tôn
Hiển vô úy thứ hai
Phật biết rõ pháp chướng
Tập khí chẳng chứng đạo
Chẳng thanh tịnh hạ liệt
Chẳng có lòng hổ thẹn
Chưa có giữ nghiệp thân
Nghiệp khẩu và nghiệp ý
Tham sân si hãi sợ
Sát sanh trộm của người
Tà dâm và vọng ngữ
Say rượu chẳng kính nhường
Bảy mạn tám chi tà
Đều chẳng phải đạo pháp
Chín điều hại nhiều tội
Mười nghiệp đạo bất thiện
Suy tưởng chẳng hiệp lý
Ngu si không giải thoát
Điên đảo tu các hạnh
Chấp hư vọng phóng dật
Phật biết nói chướng ngại
Đây vô úy thứ ba
Môn thanh tịnh vô lượng
Tu tập chứng bồ đề
Phật tự nhiên thông đạt
Nói pháp môn cam lộ
Nhẫn đến số vô lượng
Rất nhiều pháp mầu lành
Giúp Bồ Đề thanh tịnh
Được Chư Phật ngợi khen
Nếu khéo tu tập rồi
Mà chẳng chứng giải thoát
Không bao giờ như vậy
Đấng Thập Lực nói thiệt
Nếu suy tưởng hiệp lý
Dứt phiền não rộng lớn
Quán các pháp bình đẳng
Khéo tu tập hạnh Thánh
Chẳng chấp trước các tướng
Là pháp là phi pháp
Thì giải thoát lo sợ
Đức Phật nói như vậy
Khéo biết tất cả pháp
Rỗng trống như hư không
Thì giải thoát các cõi
Nếu phóng dật tạo nghiệp
Luân hồi Tam Giới mãi
Nên Phật thương chúng sanh
Muốn họ chứng giải thoát
Đấng Thế Tôn Thập Lực
Thuyết Pháp độ thế gian
Là vô úy thứ tư
Thanh tịnh như hư không.
Này Xá Lợi Phất! Đây gọi là đức vô úy bất tư nghị của Như Lai mà Chư Đại Bồ Tát tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Này Xá Lợi Phất! Thế nào Đại Bồ Tát đối với đức đại bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai mà tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ?
Này Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai đức đại bi thường chuyển vận luôn.
Tại sao?
Chư Phật Như Lai chẳng bỏ tất cả chúng sanh, vì thành thục chúng sanh nên tất cả thời gian đại bi thường chuyển luôn chẳng dứt.
Này Xá Lợi Phất! Đại bi ấy của Như Lai vô lượng như vậy, chẳng thể nghĩ bàn, không gì sánh bằng như vậy, vô biên như vậy, chẳng thể nói như vậy, mãnh lợi như vậy, lâu dài như vậy mà tùy thuận chúng sanh, nhẫn đến tất cả ngữ nghiệp của Như Lai, đối với đại bi ấy cũng khó tuyên nói.
Tại sao vậy?
Như bồ đề của Như Lai chứng được chẳng thể nghĩ bàn, đại bi của Như Lai vì chúng sanh mà phát khởi cũng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Năm - Kinh Tập - Chương Ba - đại Phẩm - Kinh Khéo Thuyết
Phật Thuyết Kinh Pháp Luân Không Thoái Chuyển - Phẩm Hai - Phẩm Tín Hành - Tập Một
Phật Thuyết Kinh đại Tát Già Ni Kiền Tử Sở Thuyết - Phẩm Hai - Phẩm Vấn Nghi
Phật Thuyết Kinh Tập Nhất Thiết Phước đức Tam Muội - Phần Một
Phật Thuyết Kinh La Ma Già - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Niệm Phật Ba La Mật - Phẩm Bốn - Phẩm Xưng Tán Danh Hiệu