Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Chín - Pháp Hội Hư Không Mục - Phần Mười Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
PHẦN MƯỜI MỘT
Này Bảo Kế! Có các chúng sanh nghe nói huệ thí thì có thể điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe nói trì giới mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe nói thí và giới mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh do nhuyến ngữ mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh do sân ngữ mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh đủ hai thứ ngữ mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe nói thân nghiệp mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe nói xả thân mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh dùng thắng mà điều phục.
Hoặc có chúng sanh dùng cương điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe lời quở trách được điều phục.
Hoặc có chúng sanh lúc bố thí điều phục.
Hoặc có chúng sanh lúc bị cướp điều phục.
Hoặc có chúng sanh thấy diệu sắc được điều phục. Thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy.
Hoặc có chúng sanh thường gần gũi điều phục.
Hoặc có chúng sanh ở xa thì được điều phục.
Hoặc có chúng sanh thấy Phật được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe pháp được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe pháp vô thường mà được điều phục. Khổ, không, vô ngã cũng như vậy.
Hoặc có chúng sanh nghe tiếng bố thí được điều phục. Tiếng giới, tiếng nhẫn, tiếng cần, tiếng định, tiếng huệ cũng như vậy.
Hoặc có chúng sanh nghe nói tất cả hữu vi vô thường mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe tán thán Nhân Thiên mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe Thanh Văn thừa mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe Bích Chi Phật thừa mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe Phật thừa mà được điều phục.
Hoặc dùng Tứ nhiếp mà được điều phục.
Hoặc dùng tam, nhị hoặc dùng một nhiếp mà được điều phục.
Hoặc chẳng dùng tứ nhiếp mà được điều phục.
Hoặc do nội thí, hoặc do ngoại thí, hoặc do nội ngoại thí mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh nghe nói sự khổ địa ngục, hoặc khổ ngạ quỷ, súc sanh hoặc sự khổ loài người, loài Trời mà được điều phục.
Hoặc nghe thuần lạc, hoặc nghe thuần khổ mà được điều phục.
Hoặc nghe cả khổ lạc mà được điều phục.
Hoặc thấy hình tượng Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hình tượng mà được điều phục.
Hoặc do làm các thứ kỹ nhạc mà được điều phục.
Này Bảo Kế! Bồ Tát có thể biết những pháp điều phục chúng sanh hành như vậy. Đây gọi là Bồ Tát có thể hành lục Ba La Mật, đầy đủ pháp tá trợ bồ đề, đầy đủ thần thông điều phục chúng sanh.
Này Bảo Kế! Nếu Bồ Tát có đủ bốn pháp thì hay điều phục chúng sanh. Đó là tâm chẳng nhàm hối, chẳng tham những sự vui, biết thời phi thời và biết rõ các tâm.
Còn có bốn pháp là chánh ngữ, ái ngữ, tịnh ngữ và như pháp ngữ. Còn có bốn pháp là với các chúng sanh tâm không chướng ngại, tâm bi, tâm lợi ích và từ điều các căn.
Còn có bốn pháp là thanh tịnh tự tâm, thương mến tâm người, siêng làm tinh tiến và xa lìa thọ lạc. Vì vậy nên Đại Bồ Tát điều phục hành vô lượng vô biên bất khả tư nghị.
Này Bảo Kế! Thưở quá khứ vô lượng A tăng kỳ kiếp, có kiếp tên là Ái, Phật Hiệu Quảng Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế Giới Phật ấy tên là Tịch Tĩnh.
Đức Phật ấy có Đại Chúng Thanh Văn chín vạn sáu ngàn ức người. Tám vạn bốn ngàn Chư Bồ Tát đại chúng. Nhân dân cõi ấy thọ mười bảy vạn hai ngàn tuổi.
Lúc ấy có một đại Vương Tử tên là Tài Công Đức, dòng Bà La Môn, diện mạo đoan chánh mọi người thích thấy. Năm mười sáu tuổi, Vương Tử ấy tự thị đoan chánh nên sanh kiêu mạn ban sơ chẳng chịu hướng Phật cung kính lễ bái.
Đức Quảng Quang Minh Như Lai nghĩ rằng: Vương Tử ấy nay sắp thối vô thượng bồ đề, thiện căn chẳng thành thục. Nếu có được thiện hữu thì Vương Tử ấy đến chỗ Phật nghe pháp thọ trì.
Đức Như Lai ấy liền ở trong đại chúng tám vạn bốn ngàn Bồ Tát hành trù mà bảo rằng: Trong Đại Chúng Bồ Tát có ai hay điều phục con trai Bà La Môn ấy, ai có thể trong tám vạn bốn ngàn năm thường qua lài nhà Vương Tử ấy, hoặc bị các sự khổ như mắng đánh mà chẳng hối.
Trong số tám vạn bốn ngàn Bồ Tát ấy không có một người nào lấy thẻ. Đức Phật ấy xướng lần thứ hai, xướng lần thứ ba cũng như vậy.
Khi lời Phật xướng gọi lần thứ ba xong, có một Bồ Tát hiệu là Tịnh Tinh Tiến từ chỗ ngồi dậy trịch y vai hữu chấm đất chắp tay bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có thể đến nhà Vương Tử ấy cam tâm chịu khổ. Lúc nói lời ấy, cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đại chấn động.
Tất cả Nhân Thiên đồng thanh xướng rằng: Lành thay lành thay, thưa Đại Sĩ! Lúc ấy Bồ Tát Tịnh Tinh Tiến liền qua đứng nơi cổng nhà Vương Tử Tài Công Đức. Vương Tử thấy, dùng lời ác mắng nhiếc, dùng đất ném lấm mặt, dùng dao gậy ngói đá chém đập thân thể, mà Bồ Tát không giận cũng không bỏ đi tâm chẳng mỏi nhàm. Trải qua một ngàn năm bị khổ như vậy.
Quá hai vạn năm mới được đến cổng thứ hai, quá tám vạn bốn ngàn năm còn thiếu bảy ngày mới đến đứng được dưới cổng thứ bảy.
Lúc bấy giờ Vương Tử Tài Công Đức thấy Bồ Tát mới hỏi rằng: Này Đạo Sĩ! Nay ông đến đây cầu sự gì?
Nói xong, Vương Tử đối với Bồ Tát liền sanh tâm bất tư nghị: Tại sao người này trải qua bao thời gian chịu nhiều sự khổ mà lòng không mỏi nhàm.
Vương Tử lần thứ hai thứ ba cũng hỏi rằng: Này Đạo Sĩ! Nay ông đến đây cầu sự gì?
Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát biết Vương Tử tâm đã điều phục liền nói kệ rằng:
Tất cả tài vật của thế gian
Vàng bạc lưu ly và pha lê
Và bốn cúng dường ta chẳng cần
Chỉ vì pháp mà ta đến đây
Đời này có Phật Quảng Quang Minh
Vì chúng sanh nói pháp vô thượng
Chúng sanh nghe rồi lìa phiền não
Cũng thọ vô lượng Cam Lộ vị
Chư Phật xuất hiện nơi thế gian
Còn khó hơn hoa linh thoại kia
Nay thế gian xuất hiện Như Lai
Ngài còn phóng dật chìm biển dục
Các chúng sanh thường đi trong tối
Đấng vô thượng giác ban đuốc huệ
Tự thị tài sắc sanh kiêu mạn
Mà chẳng chịu đến chỗ Thế Tôn
Tất cả tài bảo và mạng sống
Phật nói hai thứ đều vô thường
Chúng sanh nếu nghe Cam Lộ này
Chẳng đến chỗ Phật là phóng dật
Thưở xa xưa Ngài hành bồ đề
Mời chúng sanh hứa ban pháp vị
Nay Ngài còn thuộc các phiền não
Điều phục sao được các phóng dật
Nay ta cầu Ngài đồng đến Phật
Phá hoại kiêu mạn lìa phiền não
Siêng tu tinh tiến xả Quốc Sự
Khiến Ngài lúc chết lòng chẳng hối.
Vương Tử nghe lời kệ rồi xa lìa lòng kiêu mạn, liền sanh tín tâm tán thán Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát và sám hối sự làm khổ hại cho Bồ Tát từ trước rồi thưa rằng: Thưa Đại Sĩ! Nay tôi bỏ lìa Quốc Sự và ngũ dục lạc thượng diệu, phá hoại kiêu mạn đến chỗ Đức Phật để nghe pháp Cam Lộ điều phục chúng sanh.
Vương Tử Tài Công Đức cùng tám vạn bốn ngàn quyến thuộc mang hương hoa vi diệu theo Bồ Tát Tịnh Tinh Tiến đến chỗ Phật. Đến rồi dâng hương hoa cúng dường phá kiêu mạn chí tâm nghe pháp.
Vương Tử lòng hoan hỷ kính lễ chân Phật quỳ dài chắp tay hướng lên Phật bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi quy y Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát là người chịu khổ nhục hàng vạn năm lòng chẳng sân hận chẳng nhàm hối để điều phục tôi. Dầu tôi có cúng dường bao nhiêu cũng không báo đáp được ơn nặng ấy. Nay tôi ở trước Phật chí tâm sám hối.
Tôi trước tu hành bồ đề Đạo, dùng tâm từ bi điều phục chúng sanh, tôi chẳng còn sanh lòng phóng dật nữa nhẫn đến được Đạo bồ đề.
Vương Tử Tài Công Đức liền bỏ Vương vị, ở trong Phật Pháp xuất gia nghe học chánh pháp như pháp mà trụ được vô sanh nhẫn.
Này Bảo Kế! Ông có biết thưở ấy Tịnh Tinh Tiến là ai chăng?
Nay chính là thân ta, Thích Ca Mâu Ni Phật. Còn Vương Tử Tài Công Đức ấy, nay là Di Lặc Bồ Tát vậy.
Này Bảo Kế! Vì vậy nên Đại Bồ Tát điều chúng sanh vô lượng vô biên bất khả tư nghị. Nếu Bồ Tát có thể điều phục chúng sanh, đây chân thiệt là nghiệp hành được tu của Bồ Tát.
Này Bảo Kế! Bồ Tát có bốn thứ nghiệp: Một là Bồ Tát nghiệp tịnh Phật Quốc Độ. Hai là Bồ Tát Tịnh Nghiệp thân. Ba là Bồ Tát nghiệp tịnh khẩu. Bốn là Bồ Tát nghiệp cầu tất cả Phật Pháp. Còn có bốn nghiệp. đó là tri tâm, tri căn, tri bệnh và tri trị.
Bảo Kế Bồ Tát nghe pháp ấy rồi, liền lấy châu chân bảo trên búi tóc mình, châu ấy giá trị vô lượng, nó từ vô lượng Bồ Tát nghiệp xuất sanh, dâng lên cúng dường Như Lai và phát thệ nguyện rằng:
Nay tôi đem đảnh châu này cúng Phật, nguyện công đức cúng đảnh châu này làm nhân đầu cho chúng sanh, do nhân duyên này được vô thượng trí. Đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra đại quang minh nhiều màu sắc làm luốt mất tất cả ánh sáng khác.
Tật Biện Bồ Tát liền đứng dậy chắp tay bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?
Đức Phật nói: Này Tật Biện! Ông có thấy Bảo Kế dâng ta đảnh châu đó chăng?
Tật Biện Bồ Tát nói: Có thấy, bạch Đức Thế Tôn!
Đức Phật nói: Này Tật Biện! Bảo Kế Bồ Tát đã ở chỗ vô lượng vô biên Chư Phật phát tâm vô thượng bồ đề, trì giới tinh tiến cầu bồ đề đạo, cúng dường vô lượng hằng hà sa số Chư Phật Thế Tôn, cũng đã điều phục vô lượng hằng hà sa số chúng sanh.
Bảo Kế Bồ Tát ở đời vị lai quá mười A tăng kỳ kiếp sẽ được vô thượng bồ đề hiệu là Bảo Xuất Như Lai, Thế Giới tên là Tịnh Quang, kiếp ấy tên là Vô Cấu.
Thế Giới của Phật Bảo Xuất ấy Thất Bảo làm nên, quang minh chiếu khắp mười phương Thế Giới, tất cả nhân dân không có đói khát, đều là thanh tịnh Bồ Tát, tai họ không hề nghe danh từ nhị thừa, thường nghe pháp thuần nhất đại thừa, vì vậy mà Phật ấy có hiệu là Bảo Xuất.
Tất cả Bồ Tát Cõi Tịnh Quang ấy có đủ thần thông. Thế Giới ấy không có Vua chúa, chỉ có Phật Pháp Vương. Tất cả chúng sanh đều hoá sanh, cũng không có danh từ nam nữ và ba ác đạo. Không có chúng sanh nào mà thân thể chẳng đầy đủ các căn, cũng không có chúng sanh biên địa, thọ mạng của họ là bốn vạn trung kiếp.
Đức Phật Bảo Xuất ấy không diễn nói sự gì khác ngoại trừ lục Ba la mật. Chư Bồ Tát Cõi Tịnh Quang ấy có đủ từ bi lợi căn trí huệ, nghe Phật nói một câu liền tỏ hiểu ngàn câu. Đức Phật Bảo Xuất ấy thường vì tất cả Bồ Tát nói Đà La Ni Kim cương cú.
Sao gọi là Đà La Ni Kim cương cú?
Đà La Ni Kim Cương cú ấy tức là nhất cú. Một cú như vậy liền nhiếp hết tất cả pháp cú, vô tận pháp cú.
Sao gọi là vô tận pháp cú?
Vì tất cả Chư Phật đều chẳng thể tận được, nên gọi là vô tận pháp cú. Hành vô tận pháp cú thì nhiếp tất cả tự. Tất cả tự ấy nhiếp hết tất cả pháp cú. Nhất thời chẳng được nói nhị tự nhất tự, cũng lại chẳng hiệp nhị tự, vì vậy nên gọi là nhất cú, gọi là tác cú, gọi là tự cú. Nếu chẳng phân biệt tự cú pháp cú tác cú thì gọi là Đà La Ni Kim Cương cú.
Này Tật Biện! Đà La Ni Kim Cương cú như vậy, Phật Bảo Xuất ấy thường vì Chư Bồ Tát diễn nói.
Này Tật Biện! Hoặc một kiếp hoặc giảm một kiếp ta nói công đức của Phật Bảo Xuất ấy cũng chẳng thể hết được.
Bảo Kế Bồ Tát nghe Đức Phật thọ ký cho mình rồi tâm đại hoan hỷ nói kệ tán thán:
Tất cả tri kiến tất cả sự
Được đến bờ kia tất cả pháp
Xa lìa tất cả các phiền não
Vì vậy gọi Phật Đấng vô thượng
Tôi đã cúng dường vô lượng Phật
Như Lai đều biết rõ tất cả
Như Lai chứng được vô thượng trí
Nên biết tam thế không chướng ngại
Như Lai nay thọ ký cho tôi
Khiến tôi xa lìa lòng nghi ngại
Tôi cũng sẽ được chân thiệt đạo
Như nay Thích Ca Mâu Ni Phật
Tất cả Đại Địa đều khiến tan
Hư Không nhật nguyệt khiến rớt đất
Lời nói của Phật không có hai
Nên tôi quyết định được bồ đề
chánh ngữ thiệt ngữ vi diệu ngữ
Thọ ký tôi vô thượng bồ đề
Nếu tôi chân thiệt được bồ đề
Sẽ khéo điều phục vô lượng chúng
Cõi nước tịnh diệu tôi sẽ được
Và cùng đại chúng Phật đã ghi
Nay tôi nghe pháp vô thượng này
Phá nghi thẳng đến bồ đề đạo
Nay tôi tinh tiến tu bồ đề
Điều phục chúng sanh lòng chẳng hối
Nay Phật nói tín lực của tôi
Vô thượng trí huệ và Phật lực.
Lúc Phật thọ ký, có vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề đều nói rằng: Nguyện tôi đều sẽ được sanh Thế Giới ấy.
Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan rằng: Này A Nan! Ông nên thọ trì chánh pháp như vậy, đọc tụng rộng nói để đại lợi ích cho Chư Thiên thế nhân.
Này A Nan! Nếu có chúng sanh tín thọ Kinh này, người ấy quyết định sẽ được ta thọ ký.
Này A Nan! Nếu đem Thất Bảo đầy trong tam thiên đại thiên Thế Giới cấp thí chúng sanh mãn một ngàn năm chẳng bằng người thọ trì đọc tụng thơ tả Kinh Điển này.
Tôn Giả A Nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này tên là gì và phụng trì như thế nào?
Đức Phật nói: Này A Nan! Kinh này tên là Phương Đẳng Đại Tập Đại Đà La Ni Đại Thiện Hành Bồ Tát Nhập Xứ.
Nghe Phật nói Kinh này rồi, Tôn Giả A Nan và Chư Thiên hàng thế nhân đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh An Trạch đà La Ni Chú
Phật Thuyết Kinh Tối Thượng Bí Mật Na Nõa Thiên - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Bảy Mươi Hai
Phật Thuyết Kinh Niệm Phật Ba La Mật - Phẩm Ba - Phẩm Niệm Phật Công đức
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Du Hành - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh - Phẩm Bảy - Phẩm Nhập Dự Luận
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Chúng đa
Phật Thuyết Kinh Lược Giáo Giới Kinh
Phật Thuyết Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế âm Bồ Tát
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Tán Hoa