Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Tám Mươi - Phẩm đạo Sĩ - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI THỨ HAI
PHẨM TÁM MƯƠI
PHẨM ĐẠO SĨ
PHẦN HAI
Này Thiện Hiện! Nên biết, các Đại Bồ Tát nếu đã viên mãn bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa. Nếu đã viên mãn pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Nếu đã viên mãn chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nếu đã viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.
Nếu đã viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Nếu đã viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nếu đã viên mãn tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Nếu đã viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nếu đã viên mãn Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa.
Nếu đã viên mãn tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa. Nếu đã viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nếu đã viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Nếu đã viên mãn ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Đại Sĩ. Nếu đã viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Nếu đã viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Nếu đã viên mãn vô lượng, vô biên các Phật Pháp khác. Từ đây không gián đoạn thì trong một sát na định Kim cương dụ tương ưng với diệu tuệ.
Vĩnh viễn đoạn trừ tất cả hai chướng ngại tập khí tương tục thô trọng mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Đó mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Với tất cả pháp đều được đại tự tại cho đến tận đời vị lai luôn làm lợi ích cho hữu tình.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật như thế nào?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Chư Đại Bồ Tát từ mới phát tâm cho đến đời vị lai, luôn làm thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thuộc về thân, khẩu, ý của mình và làm thanh tịnh ba nghiệp thô trọng ấy cho người thì có thể trang nghiêm ở Cõi Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Thế nào là ba nghiệp thô trọng thuộc thân, khẩu, ý của Đại Bồ Tát?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu sát hại sanh mạng, không cho mà lấy và dục tà hạnh đó là thô trọng thuộc về thân. Nếu nói lời hư dối, lời ly gián, lời hung ác, lời tạp uế đó là sự thô trọng thuộc về khẩu. Nếu tham muốn, sân hận, tà kiến đó là sự thô trọng thuộc về ý.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn của Đại Bồ Tát mà không thanh tịnh thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xan tham, tâm phạm giới, tâm tức giận, tâm biếng nhác, tâm tán loạn, tâm ác tuệ, cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa tất cả môn Đà La Ni, môn Tam Ma Địa cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa mười lực của Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ Tát cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xa lìa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát tham trước quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tưởng về sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn xứ cho đến ý xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về sắc xứ cho đến pháp xứ cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về nhãn giới cho đến ý giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về sắc giới cho đến pháp giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về nhãn xúc cho đến ý xúc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về địa giới cho đến thức giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về các pháp do duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về vô minh cho đến lão tử cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Ðại Sĩ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tất cả hạnh Đại Bồ Tát cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về Dị sanh, tưởng về Thanh Văn, tưởng về Ðộc Giác, tưởng về Bồ Tát, tưởng về Như Lai cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về Địa Ngục, tưởng về bàng sanh, tưởng về ngạ quỷ, tưởng về người, tưởng về Trời, tưởng về nam, tưởng về nữ cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về Cõi Dục, tưởng về Cõi Sắc, tưởng về Cõi Vô Sắc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp thiện, tưởng về pháp không thiện cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu ký, tưởng về pháp vô ký cũng gọi là thô trọng.
Có tưởng về pháp hữu lậu, tưởng về pháp vô lậu cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp thế gian, tưởng về pháp xuất thế gian cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu vi, tưởng về pháp vô vi cũng gọi là thô trọng.
Này Thiện Hiện! Tất cả vô lượng, vô biên sự chấp trước các pháp như vậy cho đến các phân biệt do hư vọng của hữu tình tạo ra, cùng với thân, khẩu, ý nghiệp phát khởi và chủng loại đó không có tánh chịu đựng nổi đều gọi là thô trọng. Các Đại Bồ Tát đều nên xa lìa.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa nên xa lìa tất cả thô trọng như đã nói trên. Tự mình hành bố thí Ba la mật đa và dạy bảo người khác hành bố thí Ba la mật đa.
Nếu các hữu tình cần thức ăn thì bố thí thức ăn, cần thức uống thì bố thí thức uống, cần xe cộ thì bố thí xe cộ, cần y phục thì bố thí y phục, theo những gì họ cần thì giúp đỡ đầy đủ. Tùy thời, tùy nơi mà bố thí tất cả. Mình tu hành những gì thì dạy bảo người tu hành như vậy.
Bố thí như vậy rồi đem những căn lành ấy cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở, để mau viên mãn làm lợi lạc cho hữu tình. Đại Bồ Tát ấy tự mình hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa và dạy bảo người khác cũng hành Tịnh Giới cho đến bát nhã Ba la mật đa.
Làm những việc ấy rồi, đem căn lành cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở, để mau viên mãn làm lợi lạc hữu tình.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông chứa đầy bảy báu thượng diệu trong ba ngàn đại thiên Thế Giới để cúng dường Phật, Pháp, Tăng.
Cúng dường rồi Đại Bồ Tát hoan hỷ phát lời thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tôi đem tất cả những căn lành đã trồng được này cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở. Tôi sẽ làm cho Cõi của tôi trang nghiêm bằng bảy báu và tất cả hữu tình tùy ý hưởng thụ các trân bảo tốt đẹp nhưng không có tham đắm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Chư Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông trổi vô lượng thứ kỹ nhạc vi diệu của Cõi Trời, cõi người để cúng dường Tam Bảo và Tháp Phật.
Cúng dường xong, Đại Bồ Tát hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tôi đem những căn lành đã trồng được này cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở, khiến cho cõi của tôi thường được tấu lên những âm nhạc vi diệu như thế. Hữu tình nào được nghe thân tâm vui mừng nhưng không tham đắm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Chư Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông chứa đầy các hương hoa tốt đẹp của Cõi Trời, cõi người cả ba ngàn đại thiên Thế Giới cúng dường Tam Bảo và tháp Phật.
Cúng dường xong, Đại Bồ Tát hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tôi đem những căn lành đã trồng được này cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở, khiến cho cõi của tôi thường có các hương hoa tốt đẹp như vậy, hữu tình nào được nhận thì thân tâm vui sướng nhưng không tham đắm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông làm trăm món thức ăn uống thượng hạng cúng dường Chư Phật, Ðộc Giác, Thanh Văn và các Đại Bồ Tát.
Cúng dường xong, Đại Bồ Tát hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tôi đem tất cả căn lành đã trồng được này cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở. Khi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, khiến cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi đều được ăn trăm món thức ăn uống như vậy, thân tâm vui sướng no đủ nhưng không tham đắm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông làm các hương thơm tốt đẹp, y phục mềm mại như Cõi Trời, cõi người dâng lên cúng dường Chư Phật, Ðộc Giác, Thanh Văn và các chúng Đại Bồ Tát, hoặc cúng dường pháp và tháp Phật.
Cúng dường xong Đại Bồ Tát hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tôi đem tất cả căn lành đã trồng được này cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở. Khi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, khiến cho các loại hữu tình trong Quốc Độ của tôi sẽ được những hương thơm, y phục như vậy, tùy ý thọ hưởng nhưng không tham đắm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát dùng nguyện thần thông làm năm cảnh diệu dục phát sanh tùy ý trong cõi người, Cõi Trời, để cúng dường Chư Phật và tháp Phật, Ðộc Giác, Thanh Văn và chúng Đại Bồ Tát, bố thí cho các hữu tình khác.
Cúng dường xong Đại Bồ Tát hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tôi đem những căn lành này cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật mình đang ở.
Khi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, khiến cho các loại hữu tình trong Quốc Độ của tôi, tùy tâm ưa thích cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt đẹp thì ứng với ý nghĩ đó mà hiện ra, vui sướng hưởng thọ nhưng không tham đắm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, dõng mãnh siêng năng, phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình trụ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, và dạy người khác trụ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không.
Làm những việc như vậy rồi, Đại Bồ Tát phát nguyện: Khi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, nguyện cho tất cả loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, dõng mãnh siêng năng, phát thệ nguyện như vậy: Tự mình trụ trong chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì, và dạy bảo người trụ trong chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Làm như vậy rồi, Bồ Tát phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không xa lìa chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn: Tự mình trụ trong Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và dạy bảo người khác cũng trụ trong Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.
Làm những việc như vậy xong Đại Bồ Tát lại phát thệ nguyện như vậy: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu tập bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, và cũng dạy bảo người khác tu tập bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo.
Làm những việc như vậy rồi, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, và dạy bảo người khác cũng tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Làm như vậy xong, Bồ Tát phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, và dạy bảo người khác tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Làm như vậy xong, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, và dạy bảo người khác tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.
Làm những việc như vậy rồi, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu tập Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa, và dạy bảo người khác tu tập Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa.
Làm như vậy rồi, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không xa lìa Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu tập tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa, và dạy bảo người khác tu tất cả tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa.
Làm những việc như vậy rồi, Bồ Tát phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, và dạy bảo người khác tu năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Làm những việc như vậy rồi, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu tập mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, và dạy bảo người khác tu mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Làm như vậy rồi, Đại Bồ Tát phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Ðại Sĩ và dạy bảo người khác tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Ðại Sĩ.
Làm như vậy xong, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Đại Sĩ.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, và dạy bảo người khác tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Làm như vậy xong, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, và dạy bảo người khác tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Làm như vậy rồi, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu tất cả hạnh Đại Bồ Tát, và dạy bảo người khác tu tất cả hạnh Đại Bồ Tát.
Làm như vậy rồi, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ tất cả hạnh Đại Bồ Tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn như vậy: Tự mình tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật, và dạy bảo người khác tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật.
Làm như vậy xong, Đại Bồ Tát lại phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tôi nguyện cho các loài hữu tình trong Quốc Độ của tôi không lìa bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, nhờ hành nguyện này mà có thể trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật đang ở.
Thiện Hiện nên biết: Chúng Đại Bồ Tát ấy tùy theo nơi chốn và thời gian mà hành đạo Bồ Đề nên được viên mãn hạnh nguyện đã phát. Tức là bất cứ nơi nào, lúc nào cũng tinh tấn tu học. Do nhân duyên này mà tự mình có thể thành tựu tất cả pháp lành, cũng có thể khiến cho người khác tuần tự thành tựu tất cả pháp lành.
Tự mình có thể tu đắc tướng tốt đẹp, thù thắng để trang nghiêm thân, cũng có thể khiến người khác lần lượt tu được tướng tốt đẹp thù thắng để trang nghiêm, đó là do phước đức rộng lớn bảo hộ.
Thiện Hiện, nên biết: Chúng Đại Bồ Tát ấy hạnh nguyện tu tập đã được viên mãn, và đều được ở chỗ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, loài hữu tình được giáo hoá cũng sanh vào cõi đó cùng nhau thọ hưởng pháp lạc Ðại Thừa của Tịnh Độ.
Thiện Hiện nên biết: Các Đại Bồ Tát nên tu hành trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật như vậy, bởi vì trong cõi đó không nghe có ba đường ác, cũng không nghe có các cảnh giới thuộc ác kiến. Không nghe có ba độc tham, sân, si. Không nghe có hình tướng nam nữ. Không nghe có Thanh Văn, Ðộc Giác. Không nghe có khổ, vô thường, những việc không vừa ý. Không nghe có cất chứa của cải.
Không nghe có chấp ngã, ngã sở, tùy miên, kiết sử, điên đảo, chấp trước. Không nghe có an lập quả vị sai khác của hữu tình. Chỉ nghe nói về những tiếng không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tánh.
Nghĩa là tùy theo những điều ưa thích riêng biệt của hữu tình. Tất cả những vật trong ngoài ở trong rừng thường có gió nhẹ làm va chạm vào nhau phát ra những loại âm thanh vi diệu.
Trong âm thanh đó nói tất cả pháp đều không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên nó là không. Vì không nên vô tướng. Vì vô tướng nên vô nguyện. Vì vô nguyện nên vô sanh. Vì vô sanh nên vô diệt.
Cho nên các pháp xưa nay tịch tịnh, tự tánh Niết Bàn. Như Lai xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời pháp giới của các pháp vẫn là pháp thường trụ như vậy, nghĩa là tất cả pháp vô tánh không v.v… trong Cõi Phật đó các loại hữu tình hoặc đêm, hoặc ngày, hoặc đi đứng, nằm, ngồi thường nghe những âm thanh diệu pháp như vậy.
Thiện Hiện nên biết: Chúng Đại Bồ Tát đó đều trụ ở Cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác trong mười phương đều khen ngợi danh hiệu của các vị Phật ấy. Nếu hữu tình nào nghe danh hiệu của Chư Phật như thế thì nhất định đối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề được đắc bất thối chuyển.
Thiện Hiện nên biết: Chúng Đại Bồ Tát đều trụ ở Cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tuyên nói chánh pháp cho các hữu tình. Hữu tình nào nghe rồi nhất định không còn nghi ngờ. Nghĩa là đó là pháp, đó là phi pháp.
Vì sao?
Vì các hữu tình đó thấu đạt tất cả pháp đều là chân như, pháp giới, pháp tánh v.v… tất cả là chánh pháp không phải phi pháp.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát ấy đều có thể trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Chúng Đại Bồ Tát có vị do hóa sanh mà thiện căn chưa đầy đủ, chưa trồng các căn lành với Chư Phật, Bồ Tát, Ðộc Giác và Thanh Văn, vì bị các bạn ác khống chế.
Vì xa lìa bạn lành nên không nghe chánh pháp, thường bị chấp trước vào những loại ngã kiến, hữu tình kiến và các cảnh giới kiến chấp, rơi vào hai kiến chấp đoạn kiến và thường kiến. Các hữu tình đó tự phát sanh tà chấp, và thường dạy bảo người khác phát sanh tà kiến.
Chẳng phải Tam Bảo mà tưởng Tam Bảo, ở trong Tam Bảo mà cho là chẳng phải Tam Bảo, chê bai chánh pháp, khen ngợi tà pháp. Do nhân duyên ấy, sau khi qua đời đọa vào các đường ác, chịu khổ sở.
Các Đại Bồ Tát mỗi vị ở Cõi của mình, khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề rồi, thấy các hữu tình kia chìm đắm trong sanh tử bị vô lượng khổ, dùng lực thần thông và phương tiện để giáo hoá khiến cho họ xả bỏ ác kiến mà sống trong chánh kiến. Ra khỏi đường ác được sanh vào cõi người.
Sanh vào cõi người rồi, lại dùng phương tiện thần thông giáo hóa khiến họ trụ trong chánh định tụ, nhờ vậy mà hoàn toàn không bị đọa vào đường ác. Lại khuyên họ tu tập hạnh nguyện thù thắng để sau khi qua đời được sanh về Cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, thọ hưởng pháp lạc Ðại Thừa của Tịnh Độ.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát đều có thể ở Cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Nhờ được ở Cõi trang nghiêm thanh tịnh mà các hữu tình ấy đối với các pháp không có nghi ngờ.
Nói đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Tất cả những phân biệt nghi ngờ hoàn toàn không sanh. Do nhân duyên này mà các loài hữu tình ấy nhất định chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Thiện Hiện! Ðó là tướng công đức của Cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba