Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Bốn - Phẩm Trường Thọ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM BỐN
PHẨM TRƯỜNG THỌ
Đức Phật lại bảo các vị Tỳ Kheo: Các thầy ở nơi giới luật có chỗ nào nghi ngờ, cho phép các thầy hỏi Như Lai sẽ giải thích cho. Tất cả các pháp bổn tánh không tịch. Như Lai đã tu học rành rẽ thông đạt.
Các thầy chớ nghĩ rằng Như Lai chỉ tu các pháp bổn tánh không tịch. Ở nơi giới luật có chỗ nào nghi ngờ, các thầy nên hỏi.
Các Tỳ Kheo bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chúng con không đủ trí huệ để hỏi Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Vì cảnh giới của Như Lai không thể nghĩ bàn, thiền định của Như Lai không thể nghĩ bàn, lời phán dạy của Như Lai không thể nghĩ bàn. Vì cớ ấy nên chúng con là hạng không đủ trí huệ để hỏi Đức Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Ví như ông già trên trăm tuổi đang phải bệnh trầm trọng nằm liệt trên giường sẽ chết mất nay mai.
Một người giàu kia có duyên sự muốn đến xứ khác, đem trăm cân vàng gởi cho ông già ấy mà giao ước rằng: Hoặc mười năm hoặc hai mươi năm chừng nào tôi trở về thời ông huờn số vàng này lại cho tôi. Ông già nhận giữ vàng, không bao lâu thời chết, ông già lại không người kế tự, số vàng gởi kia đều thất lạc cả.
Lúc người chủ vàng trở về không biết đòi hỏi ai, đành chịu mất vàng. Chủ vàng là kẻ vô trí, khi gửi vàng không biết chọn nơi đáng gửi, nên phải mất vàng.
Cũng vậy, hàng Thanh Văn chúng con dầu nghe Đức Như Lai ân cần dạy bảo mà chúng con không thể thọ trì khiến chánh pháp được bền lâu, khác nào ông già kia nhận vàng của người gởi, rồi không sống được mà giữ gìn.
Chúng con vô trí, ở nơi giới luật sẽ hỏi những gì!
Đức Phật nói: Nếu nay các thầy hỏi Như Lai thời có thể đem lại sự lợi ích cho chúng sanh, nên Như Lai mới bảo các thầy có chỗ nào nghi thời cho phép hỏi.
Các Tỳ Kheo bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ví như một người trai trẻ khỏe mạnh lối hai mươi lăm tuổi, nhà giầu có, cha mẹ vợ con quyến thuộc đông đủ.
Có người đem vàng bạc đến gởi cho người trai trẻ này mà nói rằng: Tôi có duyên sự cần phải đi xa. Khi tôi trở về, anh sẽ hườn số vàng bạc này lại cho tôi.
Người trai trẻ nhận vàng bạc và cất giữ kỹ lưỡng. Ít lúc phải bệnh, người trai trẻ dặn thân quyến rằng số vàng bạc này là của ông già gởi, khi nào ông ấy đến hỏi thời giao đủ cho ông ấy. Thời gian sau, người gởi vàng bạc trở về được thân quyến của người trai trẻ hùn đủ số đã gửi. Đây là người có trí, biết chọn chỗ đáng gởi nên khỏi mất của.
Cũng vậy, nếu Đức Thế Tôn đem Pháp Bảo giao phó cho A Nan và các Tỳ Kheo ắt chẳng đặng lâu dài, vì tất cả hàng Thanh Văn và Ma Ha Ca Diếp đều sẽ vô thường, như ông già trước kia. Đức Như Lai nên đem Phật Pháp vô thượng giao phó cho Bồ Tát.
Vì hàng Bồ Tát đủ trí huệ có thể hỏi Như Lai, pháp bảo sẽ được lâu dài hưng thạnh lợi ích cho chúng sanh, như người trai trẻ trước kia. Vì những lẽ ấy, nên chỉ có hàng Bồ Tát là có thể hỏi Đức Như Lai thôi. Trí huệ của chúng con như mòng muỗi, làm sao hỏi được pháp thâm diệu của Như Lai.
Bạch xong, các Tỳ Kheo đều ngồi yên lặng.
Đức Phật khen các Tỳ Kheo rằng: Lành thay! Lành thay! Các thầy khéo được tâm vô lậu, tâm A La Hán. Như Lai cũng đã suy xét hai duyên cớ mà các thầy vừa trình bày, nên đem pháp Đại Thừa giao phó cho hàng Bồ Tát, khiến Diệu Pháp này được còn lâu nơi đời.
Đức Phật bảo toàn thể đại chúng: Thọ mạng của Như Lai không thể tính lường, biện tài cũng chẳng thể cùng tận. Đại chúng phải nên tùy ý bạch hỏi hoặc nơi giới luật, hoặc nơi pháp quy y.
Đức Phật tuyên bố luôn ba lần như vậy.
Bấy giờ trong đại chúng có một vị Đại Bồ Tát tuổi còn trẻ, vốn là người trong tụ lạc Đa La, họ Đại Ca Diếp giòng Bà La Môn, do thần lực của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, cung kính nhiễu Phật, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: Nay con có chút việc muốn bạch hỏi, xin Đức Thế Tôn hứa khả cho.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cho phép ông hỏi. Như Lai sẽ giải quyết chỗ nghi của ông, cho ông vui mừng.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: đức Thế Tôn xót thương đã cho phép, nay con sẽ hỏi. Nhưng trí huệ của con rất kém. Đạo đức của Thế Tôn cao vòi vọi, thân của Như Lai như chân Kim Cang màu như ngọc Lưu Ly.
Trong đại hội đây, các vị Đại Bồ Tát thảy đều thành tựu vô lượng vô biên thâm diệu công đức. Ở trước một đại hội như thế này, đâu dám bạch hỏi. Nay con nương sức thần thông của Phật và nhân thiện căn oai đức của đại chúng mà bạch hỏi ít điều thôi.
Ca Diếp Bồ Tát liền ở trước Phật, nói kệ rằng:
Thế nào được trường thọ
Thân Kim Cang chẳng hoại?
Lại do nhân duyên gì
Đặng sức kiên cố lớn?
Thế nào rơi Kinh này
Rốt ráo đến bờ kia?
Nguyện Phật vì chúng sanh
Giảng bày nghĩa kín nhiệm.
Thế nào đặng rộng lớn
Làm y chỉ cho chúng?
Thiệt chẳng phải La Hán
Mà đồng hàng La Hán?
Thế nào biết Thiên Ma
Làm lưu nạn cho chúng?
Lời Phật, lời Ba Tuần,
Thế nào phân biệt biết?
Thế nào bậc Điều Ngự
Hoan hỷ nói Chân Đế
Đủ thành tựu chánh thiện
Diễn nói bốn điên đảo?
Làm nghiệp lành thế nào
Xin Thế Tôn dạy bảo.
Thế nào các Bồ Tát
Thấy được tánh khó thấy?
Nghĩa mãn tự, bán tự
Phải hiểu như thế nào?
Thế nào cộng Thánh Hạnh
Như chim Ta La Ta?
Thế nào chưa phát tâm
Mà gọi là Bồ Tát?
Thế nào giữa đại chúng
Mà đặng không kinh sợ
Như vàng Diêm Phù Đàn
Không ai chỉ trích được?
Thế nào ở đời trược
Chẳng nhơ như hoa sen?
Thế nào ở phiền não
Phiền não chẳng nhiễm được,
Như y sư trị bệnh
Chẳng bị bệnh truyền lây?
Thế nào làm lái thuyền
Ở giữa biển sanh tử?
Thế nào thoát sanh tử
Như rắn lột da cũ?
Thế nào xem Tam Bảo
Dường như cây Thiên ý?
Ba thừa nếu vô tánh
Thế nào mà nói đặng,
Như sự vui chưa có
Sao lại nói thọ vui?
Thế nào các Bồ Tát
Mà đặng chứng bất hoại?
Thế nào vì người mù
Mà làm người chỉ đường?
Thị hiện nhiều đầu kia
Xin Phật giải rõ cớ.
Thế nào người thuyết pháp
Thêm lớn như trăng mọc
Thế nào lại thị hiện
Rốt ráo nơi Niết Bàn?
Thế nào bậc dũng kiện
Hiện nhân, thiên, ma, đạo?
Thế nào biết pháp tánh
Mà thọ nơi pháp lạc?
Thế nào các Bồ Tát
Xa lìa tất cả bệnh?
Thế nào vì chúng sanh
Diễn thuyết nơi bí mật
Thế nào nói rốt ráo
Và cũng chẳng rốt ráo?
Như kia dứt lưới nghi
Tại sao nói bất định?
Thế nào là đặng gần
Đạo tối thắng vô thượng?
Con nay thỉnh Như Lai
Vì các hàng Bồ Tát
Giảng nói pháp thậm thâm
Các hạnh vi diệu thảy
Trong tất cả các pháp
Đều có tánh an lạc
Cúi xin đấng Thế Tôn
Phân biệt dạy chúng con.
Bậc nương tựa của chúng
Diệu dược Lưỡng Túc Tôn!
Nay muốn hỏi các ấm
Mà con không trí huệ
Các Bồ Tát tinh tấn
Cũng lại chẳng biết được.
Cảnh giới của Chư Phật
Rất sâu mầu như vậy.
Đức Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: Lành thay! Lành thay! Nay ông chưa được nhất thiết chủng trí, Như Lai đã được, nhưng bí tạng rất sâu của ông vừa hỏi đồng như chỗ hỏi cùa bậc nhất thiết trí.
Này Thiện Nam Tử! Lúc ta mới thành đạo chánh giác nơi cội Bồ Đề, có vô lượng Bồ Tát ở mười phương Thế Giới cũng từng đến hỏi Như Lai những nghĩa thậm thâm ấy. Văn nghĩa công đức đã hỏi ngày trước cùng với của ông hôm nay đồng nhau không khác. Hỏi như vậy có thể đem sự lợi ích lại cho vô lượng chúng sanh.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con không đủ trí để hỏi Như Lai về những thâm nghĩa ấy. Ví như muỗi mòng chẳng thể bay qua đến bờ kia của biển cả, cùng lượn khắp hư không. Cũng vậy, con không thể bạch hỏi Như Lai về những nghĩa biển cả trí huệ và hư không pháp tánh rất sâu như vậy.
Ví như Quốc Vương đem viên minh châu trong búi tóc giao cho quan giữ kho. Quan giữ kho lãnh châu hết lòng cung kính gìn giữ. Cũng vậy, con hết lòng cung kính giữ gìn nghĩa lý Đại Thừa rất sâu của Như Lai truyền dạy. Vì nghĩa lý ấy làm cho con được trí huệ sâu rộng.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Lắng nghe! Lắng nghe! Như Lai sẽ vì ông mà nói nghiệp nhân trường thọ của Như Lai đã được. Do nơi nghiệp nhân này mà Bồ Tát được thọ mạng dài lâu. Nếu hạnh nghiệp có thể làm nhân cho quả Bồ Đề thời phải nên thành tâm nghe kỹ và lãnh thọ nghĩa ấy. Đã tự lãnh thọ rồi nói lại cho người khác.
Do tu tập hạnh nghiệp ấy mà Như Lai đặng thành Vô Thượng Chánh Giác. Nay lại vì người mà giảng rộng ý nghĩa ấy.
Ví như Vương Tử phạm tội bị giam vào ngục, nhà Vua rất nhớ thương con, đích thân ngự đến ngục thất.
Cũng vậy, muốn được trường thọ, Bồ Tát phải nên hộ niệm tất cả chúng sanh, xem như con ruột, sanh lòng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, truyền cho giới bất sát, dạy cho tu pháp lành. Cũng nên để tất cả chúng sanh ở nơi Ngũ Giới Thập Thiện.
Lại đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la v.v…, để cứu vớt những kẻ khổ não trong các nơi ấy.
Giải thoát kẻ chưa giải thoát, cứu độ người chưa được cứu độ. Người chưa chứng Niết Bàn làm cho chứng Niết Bàn. An ủi tất cả người đang ở trong cảnh kinh sợ. Do các nghiệp nhân trên đây mà Bồ Tát được thọ mạng dài lâu. Nơi các trí huệ được tự tại. Sau khi mạng chúng sanh lên cõi trên.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát bình đẳng xem chúng sanh đồng như con ruột, nghĩa ấy rất sâu, con chưa hiểu được. Đức Thế Tôn chẳng nên nói Bồ Tát đối với chúng sanh tu tâm bình đẳng xem đồng như con, vì trong Phật Pháp có người phá giới, có kẻ phạm tội nghịch, có kẻ hủy báng chánh pháp.
Sao lại với những hạng ấy mà xem đồng như con?
Phật dạy: Phải đấy! Như Lai đối với chúng sanh thiệt xem đồng là con nhỏ La Hầu La.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Trước kia ngày rằm lúc Chư Tăng đang Bố Tát. Có một đứa trẻ không khéo tu tập ba nghiệp thân, khẩu, ý, núp ở chỗ kín rình nghe chư Tỳ Kheo Tăng thuyết giới. Mật Tích Lực Sĩ nương thần lực của Phật lấy chày Kim Cang đập đứa trẻ ấy nát ra như bụi.
Bạch Thế Tôn! Vị thần Kim Cang ấy rất là bạo ác mới giết được đứa trẻ.
Thế sao Như Lai xem các chúng sanh đồng như là La Hầu La?
Phật dạy: Ông không nên nói như vậy. Đứa trẻ ấy chính là người biến hóa, chẳng phải người thiệt. Vì muốn xua đuổi những kẻ phá giới hủy pháp ra ngoài Chư Tăng nên hiện như vậy. Thần Kim Cang kia cũng là biến hóa thôi.
Hạng hủy báng chánh pháp cùng Nhất Xiển Đề hoặc có người sát sanh nhẫn đến tà kiến, và cố ý phạm giới, Như Lai đối với những hạng ấy đều thương xót như con là La Hầu La.
Như Quốc Vương đối với bầy tôi phạm phép thời cứ tội tru lục mà chẳng tha. Như Lai Thế Tôn không phải như vậy.
Với hạng hủy pháp, làm pháp Yết Ma khu khiển, quở trách, cử tội v.v…
Sở dĩ Như Lai làm các pháp Yết Ma trừng trị những hạng hủy báng chánh pháp như vậy là vì muốn chỉ rõ những người ác hạnh thời có quả báo.
Ông phải biết Như Lai là vị ban bố sự vô úy cho chúng sanh ác. Nếu Như Lai phóng ra một tia sáng, hoặc hai, năm tia sáng, kẻ nào gặp được thời đề xa lìa tất cả các điều ác. Nay Như Lai đầy đủ vô lượng thế lực như vậy.
Pháp chưa được thấy, nếu ông muốn thấy, nay sẽ vì ông nói tướng mạo đó. Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, nơi nào có Tỳ Kheo trì giới đầy đủ oai nghi hộ trì chánh pháp, thấy người hoại pháp bèn có thể khu khiển quở trách trừng trị. Phải biết Tỳ Kheo ấy đặng phước vô lượng không thể tính kể.
Ví như Quốc Vương chuyên làm việc bạo ác, rồi mang bệnh nặng. Vua nước láng giềng nghe biết tình hình đem binh đến đánh, trách tội muốn giết. Vua ác bệnh ấy vì không thế lực sợ hãi ăn năn chừa lỗi mà làm lành. Vua láng giềng kia được phước vô lượng.
Cũng vậy, Tỳ Kheo giữ phép khu khiển quở trách người phạm giới cho họ chừa lỗi làm lành thời đặng phước vô lượng.
Ví như nhà cửa ruộng vườn của ông Trưởng Giả mọc lên những cây gai độc. Trưởng Giả biết được bèn chặt đốn sạch cả.
Lại như người trai trẻ đầu có tóc bạc, vì hổ thẹn nên nhổ bỏ chẳng cho ra dài.
Cũng vậy, Tỳ Kheo giữ pháp thấy có người phá giới hủy hoại chánh pháp, bèn nên khu khiển quở trách cử tội. Tỳ Kheo này là đệ tử của Như Lai, là chân thật Thanh Văn. Nếu thấy mà bỏ qua, thời nên biết Tỳ Kheo này là người hại Phật Pháp.
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cứ như lời Phật dạy thời là không bình đẳng xem tất cả chúng sanh đồng như con là La Hầu La.
Bạch Thế Tôn! Nếu có một người cầm dao hại Phật, lại có một người đem nước chiên đàn thoa thân Phật. Như Lai đối với hai người này nếu là tâm bình đẳng, sao lại bảo rằng phải trừng trị kẻ phạm luật. Nếu trừng trị kẻ phạm luật thời lời dạy kia có lỗi.
Phật nói: Như Quốc Vương, Đại Thần Tể Tướng có bốn người con trai diện mạo khôi ngô, thông minh sáng suốt, đem giao cho Giáo Sư dạy dỗ và dặn rằng: Thầy gắng dạy chúng nó cho được toàn vẹn cả tài lẫn đức. Nếu chúng nó ngỗ nghịch, thầy phải nghiêm trị, dầu ba đứa bị đòn chết, còn một đứa được nên, chúng tôi cũng vui lòng.
Này Ca Diếp! Như vậy thời cha và thầy của các trẻ có phải tội sát sanh chăng?
Ca Diếp Bồ Tát thưa: Bạch Thế Tôn, không! Vì lòng thương muốn cho các trẻ được nên, chớ chẳng phải ác tâm. Dạy dỗ như thế đặng phước vô lượng.
Phật nói: Cũng vậy, Như Lai đối với kẻ phạm pháp xem đồng như con cả. Nay Như Lai đem chánh pháp vô thượng phó chúc các Vua, Đại Thần, Tể Tướng, Tỳ Kheo, Ty Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Các Vua, quan và bốn bộ chúng phải nên khuyên răn khích lệ các học chúng, khiến đặng tăng thượng giới, định, trí huệ.
Nếu người nào không tu học ba phẩm pháp này lười biếng phá giới, hủy hoại chánh pháp, thời Vua quan, bốn bộ chúng phải nên nghiêm trị.
Này Ca Diếp! Như vậy các Vua, Quan, bốn bộ chúng có mắc tội chăng?
Ca Diếp Bồ Tát thưa: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật nói: Các Vua quan và bốn bộ chúng ấy còn không tội, huống là Như Lai.
Này Ca Diếp! Như Lai khéo tu đức bình đẳng như vậy, xem các chúng sanh đồng là con cả. Tu như vậy gọi là Bồ Tát tu tâm bình đẳng nơi các chúng sanh xem đồng là con.
Bồ Tát tu tập hạnh nghiệp bình đẳng này thời được thọ mạng lâu dài, lại cũng khéo biết những việc đời trước.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy nếu Bồ Tát tu tâm bình đẳng đối với chúng sanh xem như con ruột thời được thọ mạng dài lâu. Đức Như Lai chẳng nên dạy như thế.
Như người biết phép, có thể giảng nói các hạnh hiếu thuận, khi về đến nhà lại lấy ngói đá ném đánh cha mẹ. Mà cha mẹ là ruộng phước lớn có ơn nhiều nên phải cúng dường, trở lại đánh đập, thời người biết phép này lời nói cùng hành động trái ngược nhau.
Lời dạy của Như Lai cũng vậy. Bồ Tát tu tâm từ bình đẳng được thọ mạng dài lâu biết được túc mạng, thường ở nơi Đời không có đổi dời.
Nay đây do duyên cớ gì mà Đức Thế Tôn thọ mạng rất ngắn đồng nhân gian ư?
Hay là Như Lai có oán ghét chi chúng sanh?
Ngày trước Như Lai làm nghiệp ác gì, giết chết mấy mạng, mà mắc báo đoản thọ sống không đầy trăm tuổi ư?
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Nay duyên cớ gì mà ông nói lời thô ở trước Như Lai như thế?
Như Lai trường thọ rất hơn hết trong các tuổi thọ. Như Lai chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn!
Đức Như Lai được thọ mạng dài lâu thế nào?
Phật nói:
Như tám con sông lớn:
Một là Sông Hằng.
Hai là sông Diêm Ma La.
Ba là sông Tát La.
Bốn là sông A Lợi La.
Năm là sông Ma Ha.
Sáu là sông Tân Đầu.
Bảy là sông Bác Xoa.
Tám là sông Tất Đà.
Tám con sông này cùng các sông nhỏ đều chảy vào biển lớn.
Cũng vậy, tất cả con sông thọ mạng của người, của trời, của đất, của hư không, đều vào trong biển thọ mạng của Như Lai. Vì vậy, nên Như Lai thọ mạng vô lượng.
Ví như ao A Nậu chảy ra thành bốn con sông lớn. Cũng vậy, Như Lai xuất sanh tất cả thọ mạng.
Ví như trong các pháp thường trụ, hư không là đệ nhất. Cũng vậy, ở trong các pháp thường trụ, Như Lai là đệ nhất.
Như trong các vị thuốc, vị Đề hồ là đệ nhất. Cũng vậy, trong các chúng sanh, thọ mạng của Như Lai là đệ nhất.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thọ mạng của Như Lai dài lâu như vậy, thời Như Lai nên ở nơi đời hoặc một kiếp, hoặc ít hơn để thường tuyên Diệu Pháp, như tuôn mưa lớn.
Phật dạy: Này Ca Diếp! ông chẳng nên ở nơi Như Lai có quan niệm là diệt tận.
Này Ca Diếp! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Ba Di, nhẫn đến ngoại đạo ngũ thông Thần Tiên, hạng được tự tại, hoặc sống một kiếp hay ít hơn, ở giữa hư không đi đứng nằm ngồi tự tại, nách tả phun lửa, nách hữu vọt nước, thân tuôn khói lửa, nếu muốn sống lâu, thời được như ý muốn. Đối với mạng sống hoặc dài hoặc ngắn đều tự tại.
Người được ngũ thông còn đặng thần lực tùy ý như vậy, huống là Như Lai đặng sức tự tại đối với tất cả pháp, mà lại không thể ở đời hoặc nửa kiếp, hoặc một, hai kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc vô lượng kiếp sao?
Vì những nghĩa ấy, phải biết rằng Như Lai là pháp thường trụ chẳng biến đổi. Thân của Như Lai đây là thân biến hóa chẳng phải thân tạp thực. Vì độ chúng sanh nên thị hiện đồng với chúng. Vì vậy, nên thị hiện bỏ thân mà nhập Niết Bàn.
Ông nên biết rằng Phật là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi. Ở trong đệ nhất nghĩa này, các ông phải nên siêng năng tinh tấn nhất tâm tu tập. Mình đã tu tập và vì người khác mà giảng nói.
Ca Diếp Bồ Tát thưa: Bạch Thế Tôn!
Có sự sai khác gì giữa xuất thế pháp cùng thế pháp?
Như lời Phật dạy: Phật là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi. Người đời cũng nói Phạm Thiên là thường, Tự Tại Thiên là thường, không biến đổi, họ cũng nói Ngã là thường, Tánh là thường, Vi Trần cũng thường.
Nếu nói Như Lai là pháp thường trụ, cớ sao Như Lai chẳng thường hiện nơi đời?
Nếu không thường hiện nơi đời thời có khác gì nghĩa thường của thế gian. Vì Phạm Thiên nhẫn đến vi trần cũng chẳng hiện.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Ví như nhà Trưởng Giả kia có nuôi nhiều bò, màu lông khác nhau, đồng chung một bầy. Trưởng Giả giao bầy bò cho người chăn thả đi ăn cỏ uống nước, chỉ vì vị Đề Hồ chớ chẳng cầu sữa bơ. Người chăn ấy vắt sữa rồi tự uống. Trưởng Giả chết, bao nhiêu bò đều bị bọn cướp đoạt cả.
Bọn cướp tự vắt sữa ra uống, rồi bàn với nhau rằng ông Trưởng Giả nuôi bầy bò này chỉ muốn đặng vị Đề Hồ chớ không cầu sữa bơ. Chúng ta làm cách gì để đặng Đề Hồ. Đề Hồ là phẩm vật quý nhất trong đời.
Chúng ta không có gì đựng, dầu vắt được sữa cũng không chỗ chứa. Chúng lại bàn đựng sữa trong túi da. Dầu có đồ đựng nhưng vì không biết cách làm, nên bơ còn không được thành, huống là Đề Hồ.
Vì muốn được Đề Hồ, bọn cướp đổ thêm nước vào túi sữa, vì quá nhiều nước nên chẳng những không được Đề Hồ, bơ, mà cả sữa cũng mất.
Phàm phu cũng vậy, dầu có pháp lành nhưng đều là pháp thừa của Như Lai. Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, họ trộm pháp lành thừa của Như Lai hoặc, giới, định, hoặc huệ. Như bọn cướp đoạt bầy bò. Hạng phàm phu dầu lại đặng giới, định, trí huệ, nhưng không có phương tiện nên chẳng giải thuyết được.
Vì nghĩa này nên họ không thể đặng thường giới, thường định, thường huệ giải thoát. Như bọn cướp kia chẳng biết phương tiện không được Đề Hồ, rồi vì Đề Hồ mà đổ nước vào sữa.
Cũng vậy, hạng phàm phu vì giải thoát mà nói ngã hoặc Phạm Thiên, Tự Tại Thiên, nhẫn đến Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thiên chính là Niết Bàn kỳ thiệt họ chẳng được giải thoát Niết Bàn. Như bọn cướp kia không được Đề hồ.
Hạng phàm phu ấy có chút ít phạm hạnh, cúng dường cha mẹ, nhờ đây được sanh lên trời hưởng một ít an lạc, như bọn cướp kia được sữa pha với nước.
Mà hạng phàm phu ấy thiệt chẳng biết là do tu ít phạm hạnh, cúng dường cha mẹ đặng sanh lên cõi trời, họ lại chẳng biết được giới, định, trí huệ, quy y Tam Bảo, rồi do chẳng biết mà nói thường, lạc, ngã, tịnh.
Dầu lại nói thường, lạc, ngã, tịnh, mà thiệt ra thời họ chẳng biết. Vì thế nên sau khi ra Đời, Như Lai vì chúng sanh mà diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh.
Như Vua Chuyển Luân ra Đời, do sức phước đức của Vua nên bọn cướp tan vỡ, bầy bò vẫn còn nguyên vẹn. Nhà Vua bèn giao bầy bò cho người chăn rành nghề, do đó mà được Đề Hồ, và nhờ Đề Hồ mà nhân dân khỏi bệnh khổ.
Lúc đấng Pháp Vương ra đời, hạng phàm phu không thể diễn thuyết giới, định, trí huệ kia liền tan rã như bọn cướp.
Bấy giờ Như Lai khéo giảng thế pháp và xuất thế pháp. Vì chúng sanh mà khiến các vị Bồ Tát theo đó để diễn thuyết. Chư Đại Bồ Tát đã được Đề Hồ, lại làm cho vô số chúng sanh được Pháp Vị Cam Lộ Vô Thượng, tức là thường, lạc, ngã, tịnh, của Như Lai.
Này Ca Diếp! Vì những nghĩa ấy, nên Như Lai là thường, là pháp không biến đổi. Chẳng đồng hạng người ngu trong đời gọi Phạm Thiên v.v… là pháp thường còn.
Gọi là pháp thường trụ thời phải là Như Lai chớ chẳng phải pháp nào khác. Ông phải hiểu biết thân Như Lai là như vậy.
Này Ca Diếp!
Mọi người nên thường chuyên lòng tu hai chữ này: Phật là Thường Trụ. Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào tu hai chữ này, nên biết người ấy đi theo đường Phật đi, đến chỗ Phật đến.
Này Ca Diếp! Nếu người tu tập hai chữ này làm tướng tịch diệt, nên biết Như Lai thời là nhập Niết Bàn đối với người ấy.
Này Ca Diếp! Nghĩa Niết Bàn chính là pháp tánh của Chư Phật.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Pháp tánh của Chư Phật nghĩa thế nào?
Nay con muốn biết nghĩa của pháp tánh. Cúi mong Đức Như Lai xót thương giải rộng cho. Vả pháp tánh tức là xả thân, xả thân gọi là vô sở hữu, nếu vô sở hữu thời thân làm sao còn.
Thân nếu còn tại sao lại nói thân có pháp tánh?
Thân có pháp tánh sao thân lại còn?
Nay con phải hiểu như thế nào về nghĩa ấy?
Phật dạy: Này Ca Diếp! Nay ông chẳng nên nói diệt là pháp tánh. Pháp tánh không có diệt. Ví như vô tưởng thiên thành tựu sắc ấm mà không có sắc tưởng.
Chẳng nên hỏi rằng các ông trời ấy sung sướng hưởng vui thế nào?
Nghĩ tưởng những gì?
Thấy nghe thế nào?
Này Ca Diếp! Cảnh giới của Như Lai chẳng phải là chỗ biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Chẳng nên nói rằng thân của Như Lai là pháp diệt.
Này Ca Diếp! Pháp diệt như thế là cảnh giới của Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được.
Nay ông không nên nghĩ lường Như Lai ở chỗ nào, đi chỗ nào, thấy chỗ nào, vui chỗ nào?
Những nghĩa ấy, cũng chẳng phải các ông biết được. Pháp thân của Phật, các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
Này Ca Diếp! Nên phải tu tập Phật, pháp và Tăng mà quán tưởng là thường. Ba pháp ấy không có dị tưởng. Không vô thường tưởng, không biến dị tưởng. Nếu ở nơi ba pháp tu dị tưởng, phải biết rằng Tam Quy thanh tịnh của những người này thời không chỗ y nương, cấm giới của họ đều chẳng đầy đủ.
Trọn chẳng chứng được quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Đề. Nếu có thể ở nơi bất khả tư nghị này tu thường tưởng thời có chỗ quy y.
Này Ca Diếp! Ví như nhân nơi cây thời có bóng cây. Cũng vậy, vì Như Lai có pháp thường trụ thời có chỗ quy y, chớ chẳng phải là vô thường.
Nếu cho rằng Như Lai là vô thường thời Như Lai không phải là chỗ quy y của người và của Trời.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ví như trong tối có cây mà không có bóng.
Phật nói: Này Ca Diếp! Ông không nên nói có cây mà không có bóng, chỉ vì nhục nhãn không thấy đó thôi. Cũng vậy, tánh Như Lai là thường trụ, là không biến đổi. Người không có con mắt trí huệ thời không thấy được. Như trong tối không thấy bóng cây.
Cũng vậy, sau khi Phật nhập diệt, hạng phàm phu nói Như Lai là vô thường. Nếu cho rằng Phật khác với pháp và Tăng thời chẳng thành chỗ của ba pháp quy y. Như cha mẹ của ông mỗi mỗi sai khác, nên thành vô thường.
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bắt đầu từ nay, con sẽ đem ba pháp thường trụ Phật, Pháp và Tăng để khai ngộ cho cha mẹ, nhẫn đến cha mẹ trong bảy đời đều khiến phụng trì.
Bạch Thế Tôn! Nay con phải học Phật, Pháp, Tăng bất khả tư nghị. Tự mình học rồi lại sẽ vì người mà giảng giải những nghĩa ấy. Nếu người nào không tin không nhận, thời người đó là kẻ tu pháp vô thường đã lâu. Con sẽ làm sương móc, làm mưa giá cho hạng người này.
Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: Lành thay! Lành thay! Nay ông khéo có thể hộ trì chánh pháp. Hộ pháp như vậy thời là không khinh khi người. Do nơi nghiệp nhân không khinh khi người mà được quả báo trường thọ, biết rành những đời đã qua.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nhuy Tứ Gia - Phẩm Tám - Phẩm Kinh Cồ Hề Guhya Tantra Phụng Thỉnh Cúng Dường
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Một - Phẩm đại - Kinh Dụ
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Bốn - Phẩm Trường Thọ
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Du Hành - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Bổn Sự - Phẩm Một - Phẩm Pháp Một - Phần Bốn