Phật Thuyết Kinh đại Tập đại Phương đẳng Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội - Phẩm Mười Một - Phẩm Tư Duy Tam Muội
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đạt Ma Cấp Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI TẬP ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG
BỒ TÁT NIỆM PHẬT TAM MUỘI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đạt Ma Cấp Đa, Đời Tùy
PHẨM MƯỜI MỘT
PHẨM TƯ DUY TAM MUỘI
Bấy giờ Bồ Tát Ma Ha Tát Bất Không Kiến bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn, nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát muốn thành tựu điều Chư Phật nói về Niệm Phật Tam Muội, vậy tư duy làm sao để được an trú?
Đức Phật bảo Bồ Tát Bất Không Kiến: Này Bất Không Kiến! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát quyết muốn thành tựu tam muội này thì trước phải chánh niệm các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác ở thời quá khứ, tiếp theo nhớ nghĩ các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác ở hiện tại, kế đó nhớ nghĩ các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác ở vị lai.
Vị ấy nhớ nghĩ tất cả mười phương Thế Giới trong ba đời, tất cả các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thành tựu từ Trời Hạ Sanh, thành tựu nhập thai, thành tựu trụ thai.
Thành tựu xuất thân, thành tựu xuất gia, thành tựu các công đức, thành tựu các căn, thành tựu các tướng, thành tựu các vẽ đẹp, thành tựu sự trang nghiêm, thành tựu giới phẩm, thành tựu tam muội, thành tựu trí huệ, thành tự giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, thành tựu Tứ vô úy, thành tựu từ, bi, hỷ xả.
Thành tựu tàm quý, thành tựu oai nghi, thành tựu các hạnh, thành tựu Xa ma tha, thành tựu Tỳ bà xá na, thành tựu minh giải thoát, thành tựu giải thoát môn, thành tựu tứ niệm xứ, thành tựu tứ chánh cần, thành tựu tứ như ý túc, thành tựu ngũ căn, thành tựu ngũ lực, thành tựu giác phần, thành tựu chánh đạo.
Thành tựu nhân duyên kiếp trước, thành tựu vừa dạy vừa chỉ bảo, thành tựu chỉ giáo các thần thông, thành tựu chỉ giáo đại thần thông, thành tựu giới phẩm, thành tựu tất cả tam muội.
Thành tựu lợi ích tất cả, thành tựu sự lợi ích cho người khác vô ngại, thành tựu tất cả thiện pháp, thành tựu sắc thanh tịnh, thành tựu tâm thanh tịnh, thành tựu trí thanh tịnh, thành tựu các nhập, thành tựu sắc vàng trăm phước.
Khi Bồ Tát ấy nghĩ đến các tướng như vậy của các Đức Như Lai xong, lại nên nghĩ đến các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác ấy tâm không động loạn, cũng thường an trụ, tâm không đắm trước.
Thấy tâm các Ngài không đắm trước xong, vị ấy lại suy nghĩ như vậy: Trong đó những gì gọi là Như Lai?
Chính nơi sắc là Như Lai chăng?
Hay lìa sắc là Như Lai?
Nếu cho sắc pháp là Như Lai thì các chúng sanh kia đều có sắc ấm.
Vậy các chúng sanh lẽ đáng cũng là Như Lai?
Nếu bảo lìa sắc là Như Lai, lìa sắc là pháp không có nhân duyên, đã là pháp không có nhân duyên, sao gọi là Như Lai?
Bồ Tát quán biết sắc như vậy xong, tiếp theo là quán thọ.
Khi ấy Bồ Tát lại suy nghĩ như vậy: Ngay nơi thọ là Như Lai hay lìa thọ là Như Lai?
Nếu chính pháp thọ là Như Lai thì các chúng sanh đều có thọ ấm, vậy các chúng sanh lẽ đáng cũng là Như Lai?
Nếu lìa pháp thọ là Như Lai, lìa pháp thọ là pháp không có nhân duyên, đã là pháp không có nhân duyên, sao gọi là Như Lai. Vị ấy đã quán sát thọ như vậy xong, cho đến quán thức cũng như vậy.
Khi ấy Bồ Tát lại nghĩ như vậy: Nếu các ấm này không phải là Như Lai, vậy các căn là Như Lai chăng?
Nghĩ như vậy xong, trước tiên quán về nhãn: Chính ngay nơi nhãn là Như Lai hay lìa nhãn là Như Lai?
Nếu chính nơi nhãn là Như Lai thì tất cả chúng sanh cũng đều có nhãn này, vậy tất cả chúng sanh lẽ ra cũng là Như Lai?
Nếu lìa nhãn là Như Lai, lìa nhãn chẳng phải là pháp nhân duyên, đã không phải là pháp nhân duyên sao gọi là Như Lai?
Bồ Tát quán sát về nhãn như vậy xong, quán về nhĩ, tỷ, cho đền quán về ý cũng lại như vậy.
Lúc ấy Bồ Tát kia lại nghĩ như vậy: Nếu các căn này không phải là Như Lai, há lại các đại là Như Lai chăng?
Nghĩ như vậy xong, trước tiên quán về địa: Chính địa giới là Như Lai chăng?
Hay lìa địa giới là Như Lai?
Nếu chính địa giới là Như Lai thì các pháp trong ngoài đều thuộc về địa, địa giới như vậy chính là Như Lai?
Nếu lìa địa giới là Như Lai, lìa địa giới tức là pháp không nhân duyên, đã là pháp không phải nhân duyên sao gọi là Như Lai?
Vị ấy đã quán sát về địa giới như vậy, cho đến quán thủy, hỏa, phong giới cũng lại như vậy. Song, Bồ Tát ấy khi có thể tư duy một cách chân chánh như vậy, không lấy sắc quán sát Như Lai, không lìa sắc quán sát Như Lai.
Cũng vậy, không lấy thọ, không lìa thọ, không lấy tưởng, không lìa tưởng, cho đến không lấy thức, không lìa thức quán sát Như Lai cũng lại như thế.
Lại nữa, khi vị ấy quán sát không lấy nhãn quán sát Như Lai, không lìa nhãn quán sát Như Lai.
Như vậy, không lấy nhĩ, không lìa nhĩ, không lấy tỷ, không lìa tỷ, cho đến không lấy thân, ý, không lìa thân, ý quán sát Như Lai cũng lại như thế.
Lại nữa, khi vị ấy quán sát không lấy sắc quán sát Như Lai, không lìa sắc quán sát Như Lai, cũng vậy, không lấy sắc, không lìa sắc, không lấy thinh, không lìa thinh, cho đến không lấy xúc, pháp, không lìa xúc, pháp quán sát Như Lai, cũng lại như vậy.
Lại nữa, khi vị ấy quán sát không lấy địa quán sát Như Lai, cũng không lìa địa quán sát Như Lai. Như vậy không lấy thủy, không lìa thủy, cho đến không lấy phong, không lìa phong quán sát Như Lai, cũng như vậy. Khi Bồ Tát quán như vậy, liền có thể ở trong tất cả pháp khéo không thông đạt, biết rõ ràng vô ngại.
Bấy giờ Bồ Tát ấy lại nên suy nghĩ như vậy: Trong đó lại lấy những chân pháp gì mà có thể đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề?
Lấy thân đắc bồ đề chăng?
Hay dùng tâm đắc bồ đề?
Nếu thân đắc thì hiện nay thân này vô giác, vô thức, si mê, vô trí, giống như cây cỏ, như đá, như vách tường, song Bồ Đề ấy chẳng phải sắc, chẳng phải thân, chẳng phải hành, chẳng phải đắc, không thể thấy, nghe, không thể xúc chứng.
Còn thân này thì như vậy làm sao có thể thành bồ đề?
Còn nếu tâm đắc thì chính tâm này tự nó vốn không hình, không có tướng mạo, không thể thấy, nghe, không thể xúc chứng, không thể cầm nắm, giống như huyễn hóa. Bồ đề như vậy cũng không có tâm, không có xúc đối, không thể thấy nghe, không thể chứng biết.
Tâm này như thế làm sao có thể thành tựu bồ đề?
Này Bất Không Kiến! Đó là Bồ Tát chánh niệm tư duy, không lấy thân, tâm, cũng không lìa thân tâm mà có thể chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Đức Phật bảo: Này Bất Không Kiến! Nhưng Bồ Tát kia thường nên tư duy quan sát như vậy. Nếu khi có thể quán các pháp như vậy liền được an trí ở trong chánh pháp, tâm không thay đổi không thể di động.
Nên biết khi ấy đầy đủ pháp Bồ Tát Ma Ha Tát, tự nhiên xa lìa tư duy bất thiện, nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chánh giác bình đẳng, chân thật pháp giới.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì làm rõ lại nghĩa này nên nói kệ tụng:
Quá khứ, vị lai các Thế Tôn
Hiện tại tất cả đấng thấy khắp
Lắng tâm không tịch, hành từ ái
Muốn thấy Chư Phật không khó khăn
Xưa kia Chư Phật Đại Oai Quang
Xót thương thế gian, ban niềm vui
Ngài nghĩ Phân Đà Lợi, loài người
Điều Ngự Trượng Phu đầy công đức
Lại nhớ Hạ Sanh và nhập thai
Trú thai, mẹ quý đều đầy đủ
Nghĩ Ngài sanh ra các tướng tốt
Thường thấy Đẳng Giác chẳng khó khăn
Nhớ các vẻ đẹp rất trang nghiêm
Và bổn nguyện Ngài đã làm trước
Lời hay, nghĩa diệu trước, giữa, sau
Ngài đều khéo đi, thân giải thoát
Trụ môn giải thoát và cúng dường
Chánh cần cùng với tứ thần túc
Nên nhớ các căn đấng đầy đủ
Lực, bồ đề phần cũng như vậy
Hoặc nhớ Chư Phật, đấng giải thoát
Không lâu sẽ đến thắng tịch địa
Niệm lợi ích tất cả thế gian
Công đức thiện pháp khó nghĩ lường
Sắc đẹp cùng với tâm thanh tịnh
Lại nghĩ các vẻ đẹp Thế Tôn
Thân thể Kim Cang, tướng trăm phước
Nên biết Như Lai các niệm tròn
Trong những pháp gì gọi Như Lai
Cần nên quán sát vô biên xứ
Chư Phật chẳng sắc lại chẳng thọ
Chẳng phải tưởng, hành, chẳng tâm thức
Những pháp như vậy chẳng Như Lai
Người trí chánh kiến nên thể nhập
Cũng chẳng lìa chúng là Chư Phật
Ứng Cúng, Thiên Thệ chỉ tên gọi
Chư Phật chẳng nhãn, chẳng nhĩ, tỷ
Chẳng thiệt, thân, ý và pháp thảy
Cũng chẳng lìa chúng là Như Lai
Chánh Giác trang nghiêm chỉ tên gọi
Chỉ có tên lớn, không chân Phật
Lìa danh nơi nào có thật thể?
Người trí nếu biết đều hòa hợp
Nên chứng Đẳng Giác thật chẳng khó
Nếu cho các ấm là Như Lai
Tất cả chúng sanh đều có ấm
Chúng sanh lẽ ra là Chư Phật?
Vì ấm bình đẳng ai cũng có
Không cho sắc thảy là Chư Phật
Cũng không lìa ấm, gọi Như Lai
Vô lượng số kiếp chánh tư duy
Trí bất tư nghị mới thành tựu
Thân như cây cỏ và tường, đá
Bồ Đề không sắc cũng không sanh
Không thân ngu si và cây cỏ
Vì sao nói thân chứng bồ đề?
Tâm này không tướng, lại không hình
Bồ Đề chẳng tâm, không hình dạng
Chẳng thân, chẳng tâm hay đắc chứng
Cũng chẳng không chứng, khó nghỉ nghì
Đó là tối thắng tịch tịnh địa
Ngoại đạo trong đó đều mê mờ
Nếu ngay pháp này cầu chánh cần
Ắt mau chứng đặng tam muội ấy.
Bấy giờ Bồ Tát Ma Ha Tát Bất Không Kiến bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn, Bồ Tát Ma Ha Tát nên chứng tri cái gì để xả ly ngã kiến?
Đức Phật bảo: Này Bất Không Kiến! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát khi được chứng tri mà không có trụ trước thì lìa ngã kiến. Bồ Tát tuy không trụ trước như vậy mà hay vì tất cả Thiên, Nhân, chúng sanh ở thế gian làm lợi ích lớn.
Lợi ích thế nào?
Đó là vì ánh sáng đại pháp, đốt lên ngọn đuốc đại pháp, thổi loa đại pháp, khua chuông đại pháp, cỡi thuyền đại pháp, bắt cầu đại pháp, muốn đưa chúng sanh ra khỏi bốn dòng thác đổ của sanh tử, đặt nơi Niết Bàn vô vi, bỉ ngạn.
Tiếp đó phải quán sát bổn tánh của thân này, tiếp theo phải quán sát sự bất tịnh, hôi thối, hư nát, ung mủ, dãy đầy phân và nước tiểu của thân.
Thân này vô thường, không dừng lại trong giây lát, bị phá hoại, khô cằn, không thể lâu dài, nó lừa dối, mê hoặc kẻ tiểu nhi, nó nguy hiểm không bền chắc, giống như đống bọt nước, đầy dãy vi trùng, gân xương giúp nhau mà riêng rẽ hành động, không có chỗ thật dụng.
Thân này hoặc trải qua một trăm năm hay trăm ngàn năm, cho dù là tám vạn kiếp, đầy đủ tất cả thú vui, gìn giữ trưởng dưỡng, cuối cùng cũng phải hư hoại.
Thân này luôn luôn không lìa phiền não, không ra khỏi điên đảo, hằng bị các ác điểu, các thú ăn nuốt. Lại thân này cũng thường cùng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh qua lại, sanh tử, đến đi, thọ các khổ não, hoặc làm nô lệ, các thứ khổ sở, thường bị lệ thuộc người khác, không được tự tại.
Nhưng đã sanh ra thân này, làm sao có thể thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo?
Nay thân của ta chỉ là hư vọng, dối láo, ngu si, chẳng có gì kiên cố. Cho nên ta càng phải đem tất cả thân này phân chia, bố thí cho các chúng sanh.
Nếu có chúng sanh coi trọng thân mình, ta sẽ vì họ vứt bỏ thân mạng. Nếu có chúng sanh cần tinh khí của ta, ta sẽ cho kẻ ấy tinh khí. Nếu có chúng sanh cần thịt của ta, ta sẽ đem thịt dâng hiến cho họ.
Vì sao vậy?
Trước hết, thà ta đem cho để kẻ ấy được ăn, không để vì không cho mà khiến họ tự ăn. Nay ta dùng tâm thanh tịnh này bố thí, được thiện căn, mong diệt trừ tức khắc căn bản ngã kiến.
Song, Bồ Tát kia khi quán như vậy không đắm trước ngã kiến. Khi ngã kiến đã diệt rồi, sau đó mới xả thân, khiến cho chúng sanh vì tiếc mạng sống, vị ấy vứt bỏ mạng căn.
Chúng sanh cần tinh khí, thì cho tinh khí, cần thịt để ăn thì cho thịt. Nếu có chúng sanh cần người sai bảo thì liền làm nô lệ để họ sai bảo.
Này Bất Không Kiến! Nhờ nhân duyên ấy mà Bồ Tát Ma Ha Tát kia trừ bỏ được ngã kiến, không trụ ngã kiến, chứng biết ngã kiến, mà có thể đối với trong cái thân không kiên cố này, cầu cái thân kiên cố.
Này Bất Không Kiến! Thí như trong thôn, xóm, tụ ấp, thành quách có nhiều đồng nam, đồng nữ từ nhà đi ra, đến bờ sông, từ xa thấy đống bọt nước, lấy bọt nước ấy, cùng nhau vui chơi, làm cho bọt nước bể nát, tách ra, tiêu mất, khiến cho bọt nước tiêu tan chẳng còn gì cả.
Song, đống bọt nước ấy không nghĩ rằng: Ngày hôm nay ai có thể phân tán ta như vậy. Bọt nước tuy bị phá hoại nhưng vẫn không có tâm não hận.
Này Bất Không Kiến! Như vậy Bồ Tát Ma Ha Tát tự quán thân mình là vật vô thường, bị phá hoại, như đống bọt nước kia, không thể lâu dài. Nên biết, người ấy được tam muội này, mà thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Bấy giờ Đức Thế Tôn để làm sáng lại nghĩa này, nói kệ tụng:
Nếu ai hay xa lìa ngã kiến
Không có trụ trước tất cả chỗ
Vì lợi thế gian Trời và người
Sẽ chứng Đại Bồ Đề khó thấy
Nếu biết chán thân các bất tịnh
Là chỗ bướu, ghẻ, máu, mủ chảy
Thân này biến hoại, chẳng chắc chắn
Vô thường ốm yếu, pháp phá hoại
Tạm dừng, như nhuyễn, không thật thể
Như đám bọt nước rỗng, không chân
Ngày đêm nuôi dưỡng chẳng ích gì
Chim, thú ăn thịt, rất đáng sợ
Tuy dùng đủ vật để cung cấp
Thân này cũng phải bị tan diệt
Đã không phải là pháp kiên cố
Qua vô lượng kiếp toàn là khổ
Địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ khổ
Đói khát, phiền não thường đốt cháy
Trói buộc thế gian hơn trăm lưới
Trước hay không biết tưởng như thật
Thân này ngày nay tự hư dối
Thân thể không thường đổi từng phút
Rằng các chúng sanh ăn thịt ta
Tinh khí, phục dịch, ta cam chịu
Khi ta nghĩ vậy, thường phát nguyện:
Nếu ai ăn thịt và tinh huyết
Nay ta sẽ vì họ vứt bỏ
Để họ tự ý ăn thân ta
Để khiến những ai thấy thân báu
Đều được thấy ta bỏ mạng sống
Nay ta không yêu tiếc thân mạng
Mong mau thành được Tam Ma Đề
Giống như bọt nước thường tan vỡ
Chưa từng một lần khởi tâm sân
Nay thân của ta như bọt nước
Há có sanh tâm ghét và oán
Nếu hay quán thân như bọt nước
Người ấy nhất định cầu bồ đề
Không chỉ phụng sự mười phương Phật
Mà mau chứng được thắng tam muội.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Sáu Mươi Mốt - Phẩm Thần Hồn, Trí Và Thức
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Già Ma
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ha Lê - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Tám - Phẩm Vô Sở đắc - Phần Mười Một
Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Hàng Ma
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Hai - Kinh Pháp Cú - Chương Hai Mươi Năm - Phẩm Tỳ Kheo