Phật Thuyết Kinh đẳng Tập Chúng đức Tam Muội - Phần Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẲNG TẬP CHÚNG ĐỨC TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẦN SÁU  

Đức Phật dạy: Này Bồ Tát Câu Tỏa! Ông muốn biết người con của Phạm Chí Thiện Tài Đại Thế thuộc tộc họ tôn quý thời ấy chăng?

Đâu phải là người nào khác, chớ nên nghĩ như vậy.

Vì sao?

Vì nay chính là Bồ Tát Ly Cấu Oai. Vào đời ấy ý luôn tự đại, nên liền quên mất tâm đạo đã tu tập. Lại muốn giữ gìn các thần thông, trí tuệ nơi gốc công đức của đời trước, cộng với phước đức còn lại không hề hủy báng thông tuệ, nên làm lực sĩ có uy lực lớn.

Vâng lời Phật dạy không làm việc ác, nghe âm thanh Phật liền tự đi đến, tự lấy sức mình muốn so sánh với Như Lai, được nghe Thế Tôn Giảng nói về diệu lực của Bồ Tát, liền từ bỏ tâm tự cao, ngã mạn. Xưa kia đã gieo trồng gốc của pháp thiện liền hiện ra trước mặt nên đạt được pháp nhẫn. Oai thần thông không thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Bồ Tát Câu Tỏa hỏi Bồ Tát Ly Cấu Oai: Này thiện nam! Ông thực hành pháp gì mà mau được pháp nhẫn?

Bồ Tát Ly Cấu Oai đáp: Phát khởi pháp đối với tất cả chúng phàm phu.

Lại hỏi: Làm thế nào để phát khởi?

Đáp: Sự phát khởi ấy cho đến chỗ rốt ráo sau cùng hoàn toàn không thật có, cũng chẳng phải là sự phát khởi ấy, thường không có nơi chốn nương tựa, cũng không chỗ chứng đắc.

Bồ Tát Câu Tỏa lại hỏi: Này thiện nam! Pháp của hàng phàm phu và pháp của Phật có gì sai biệt, có vô số sự sai khác chăng?

Đáp: Theo giả danh mà nói thì nhân có vô số, nhưng về nghĩa thì không khác.

Hỏi: Này thiện nam! Pháp của hàng phàm phu làm thế nào để giải nghĩa?

Đáp: Vô thường, cũng không tưởng, niệm, là nghĩa không điên đảo.

Hỏi: Này thiện nam! Nghĩa ấy là như thế nào?

Hướng đến chốn nào?

Đáp: Này Bồ Tát Câu Tỏa! Người thông đạt về ý nghĩa ấy cũng không trừ bỏ pháp phàm phu, cũng không thành tựu pháp Phật.

Hỏi: Thế nào là ý nghĩa của pháp?

Đáp: Không hai là ý nghĩa của pháp, các pháp là ý nghĩa của pháp.

Người không tự tạo chánh kiến có hai nhân duyên: Nghe từ người khác, hoặc suy nghĩ thực hành cho là đầy đủ.

Lại hỏi Bồ Tát Câu Tỏa: Như Lai không thuyết giảng, chỉ quay trở về luận bàn điều căn bản nên sự luận bàn thành quan trọng.

Do nhân duyên gì mà luận bàn việc quan trọng ấy không dùng lời hoa mỹ?

Đáp: Giáo hóa không chỉ luận bàn về chỗ chính yếu mà còn không hủy hoại lời nói tốt đẹp của Bồ Tát nên không bị tổn hại. Nếu người luận bàn chỉ bằng lời nói tốt đẹp thì người thực hành như vậy cũng không thành tựu. Bồ Tát ấy trở lại luận bàn những pháp chính yếu để thuyết pháp thông suốt.

Vị đó không thể đạt được vì không dùng nghĩa để trả lời. Tất cả các pháp đều được tự tại, vì tôn quý lớn lao, vì không gì sánh bằng. Chỗ có thể phân biệt về giới hạn, thời gian dẫn đến diệt độ rốt ráo. Gốc ngọn hoàn toàn vắng lặng tức là ý nghĩa của tướng, là pháp Thế Tôn đã thuyết giảng.

Này Bồ Tát Câu Tỏa! Nghĩa quy mạng là không chế ngự pháp, cũng không có chỗ nhớ nghĩ, cũng không người chế ngự, không bỏ, không ngăn. Không chỗ nhớ nghĩ ấy là kiên cố chính yếu, sự kiên cố chính yếu ấy mới gọi là ý nghĩa.

Bồ Tát Câu Tỏa lại hỏi: Này thiện nam! Há có phương pháp để trở về nơi nghĩa chính yếu tức là trở về nơi chỗ chính yếu của tất cả các pháp chăng?

Đáp: Có.

Hỏi: Do nhân duyên gì?

Đáp: Các pháp không có nguồn gốc, tất cả đều không vì các pháp luôn vắng lặng. Giả sử trở về nơi nghĩa chính yếu là không, thì nghĩa chính yếu là tịch tĩnh cũng như vậy.

Thế nên, này thiện nam! Quy về nơi nghĩa chính yếu tức là dẫn dắt trở về nơi tất cả các pháp.

Hỏi: Này thiện nam! Đức Phật không dạy là thấu rõ tất cả các pháp tức đều trở về nơi chỗ chính yếu chăng?

Đáp: Này thiện nam! Đúng vậy! Vì thế nên tất cả các pháp suy xét về nghĩa căn bản là quy về chỗ chính yếu tức là nghĩa rốt ráo, các pháp môn ấy là nghĩa đệ nhất. Như nói nên cầu như vậy, người hành trì như thế xem như không có pháp, cũng chẳng phải là không có pháp, cũng không sinh, cũng không diệt.

Đạo của chư Hiền thánh là không có hai đường, không tạo tác, cũng chẳng phải là không tạo tác, cũng không có chỗ tạo tác. Đó là con đường tạo tác của Bồ Tát. Đạo không có chỗ tạo tác, cũng không cầu đạt nghĩa, cũng không phép tắc mê lầm.

Lúc Bồ Tát Ly Cấu Oai giảng nói như vậy, năm trăm Tỳ Kheo, tám trăm Thiên Tử đều xa lìa trần cấu đạt được pháp nhãn thanh tịnh.

Bồ Tát Ly Cấu Oai hỏi Bồ Tát Câu Tỏa: Như Lai đã thuyết giảng về ý nghĩa cốt yếu không dùng lời hoa mỹ, người xét về nghĩa này không có hai hành, nghĩa ấy rốt ráo nên không chỗ sinh cho nên Như Lai thuyết giảng về nghĩa như thế, chỉ nhằm quy về nghĩa chính yếu, không dùng lời hoa mỹ vì cả hai vốn thanh tịnh bình đẳng, thể tánh tự nhiên không siêu việt nên Như Lai chỉ giảng nói như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Sở dĩ Như Lai giảng nói lời ấy vì hai việc nhằm phát sinh chánh kiến, dó là quan sát âm thanh của người khác theo đấy mà suy xét, người không học rộng nghe nhiều về giáo pháp, chỉ thuận theo Tam Muội thì rơi vào kiêu mạn giống như sự việc này.

Đức Thế Tôn dạy: Lắng nghe, xét rõ về pháp luật mới là khuyến khích, trợ giúp cho sự học rộng nghe nhiều. Lắng nghe kinh pháp rồi đều phụng hành, làm thanh tịnh nẻo hành hóa đạt đến đạo Hiền Thánh.

Hỏi: Thế nào là Tỳ Kheo tư duy về hành hóa?

Đáp: Hành đúng theo pháp cũng không có chỗ hành. Đó là chỗ chính yếu tư duy về sự hành hóa.

Này thiện nam! Đó gọi là sự hành trì thuận hợp.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ Tát thực hành như thế, không phát khởi âm thanh, không phân biệt về ngã và ngã sở. Nếu có người giảng thuyết về các hành xứ, hoặc nói về sự xuất phát, hoặc nói về sự trở về tất cả đều không chỗ trụ, không chỗ thủ đắc, cũng không quá khứ, cũng không vị lai, cũng không hiện tại để tu tập các việc ấy.

Đó là tư duy chính yếu về nẻo hành trì, thấy rõ tất cả các pháp tự nhiên đều quy về diệt tận, lãnh thọ tất cả các pháp, tư duy, xem xét chỗ chính yếu, thanh tịnh. Nhờ xem xét tất cả các pháp vốn thanh tịnh như nhau nên cũng thấy rõ hết thảy các pháp.

Các pháp tự nhiên từ gốc thanh tịnh sinh ra, cũng do quán xét thấy tất cả các pháp cốt yếu là thanh tịnh, xưa nay không sinh, rốt ráo không khởi, hoàn toàn không diệt, nên cũng xét thấy mọi pháp từ gốc thanh tịnh mà diệt độ, không tịch nhiên cũng không có đối tượng được quán. Đó gọi là quán.

Đối tượng được quán ấy là không chỗ quán, cũng không chỗ thấy. Giả sử không thấy, không có đối tượng được quán thì chỗ thấy như vậy cũng không thấy nên không gọi là có chỗ thấy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Ly Cấu Oai: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Giáo pháp ta đã thuyết đúng như lời ông nói.

Pháp chính yếu thanh tịnh của Bồ Tát tư duy không hư vọng, pháp chính yếu thanh tịnh của Bồ Tát tư duy không ngăn che, pháp chính yếu thanh tịnh của Bồ Tát tư duy không có pháp này, cũng không có cửa giải thoát, pháp chính yếu thanh tịnh của Bồ Tát tư duy đối với người đã hành pháp cũng không có chỗ trừ diệt, cũng không có chỗ hành, cũng không đến, đi.

Đó là quán bình đẳng theo chánh kiến, thấy rõ tất cả pháp đều bình đẳng, cũng chẳng không bình đẳng giống như chỗ nhận thấy?

Lại hỏi: Thế nào là tất cả các pháp không bình đẳng, như có chỗ thấy, như không chỗ thấy?

Này thiện nam! Các pháp ấy cũng không thấy, cũng chẳng phải là không thấy, xưa nay bình đẳng cũng không có chỗ sinh, nghĩa đó là như vậy. Cũng không nơi chốn sinh khởi, cũng không thật có, không vượt ra ngoài sự thấy, không đi vào chỗ vắng lặng, đó là bình đẳng.

Cũng chẳng không có, cũng không thật có, cũng chẳng tự nhiên, cũng chẳng không tự nhiên, đó gọi là bình đẳng. Nói như vậy cũng không chỗ nói, làm cũng không chỗ làm, cũng không chỗ thấy, cũng không vượt qua nên đều bình đẳng vắng lặng. Đó là quán bình đẳng nên có thể hội nhập vào pháp quán như vậy.

Hỏi: Vì sao gọi bình đẳng hội nhập vào vắng lặng?

Đáp: Bình đẳng giữa ngã và ngã sở, cũng bình đẳng với chẳng phải là ngã, ngã sở, tất cả các pháp cũng không hình tướng, cũng không hủy hoại, đó là bình đẳng nhập vào chốn vắng lặng.

Bấy giờ, Bồ Tát Câu Tỏa bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hội nhập vào chốn vắng lặng chưa từng có này là do tướng vốn thanh tịnh tịch tĩnh. Bồ Tát đều nhận biết các pháp là như vậy.

Nếu lại có người nghe, có thể tin hiểu, theo chỗ hành hóa cũng không ở nơi ấy mà được diệt độ?

Đức Phật bảo: Do Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo làm chỗ ưa thích, dùng phương tiện thiện xảo để tu tập đầy đủ các hạnh, phát khởi tất cả tâm, quay về với bốn pháp.

Đó là: Hành đại từ, hành đại bi, hành các thông tuệ, không bỏ giáo pháp của Phật. Nếu có thể phụng hành nêu giảng rõ về pháp này thì hội nhập vào nẻo tịch diệt là chỗ hướng tới của các tướng.

Tất cả gốc thanh tịnh đều là diệt độ, nên nẻo hành của các pháp đều đạt đến chỗ tịch diệt. Khi nghe lời này rồi thì liền tin ưa, có thể hành hóa cũng không ở giữa chững mà chọn lấy diệt độ. Vì thế, phân biệt về nguồn gốc của các pháp, là tịch diệt, cũng không vắng lặng, cũng không đọa lạc.

Vì sao?

Vì không muốn xả bỏ tất cả chúng sinh.

Bồ Tát Ly Cấu Oai bạch Phật: Thế nào là Bồ Tát hành hóa thuần thục?

Như Phật đã giảng nói là không rơi vào tịch diệt.

Đức Phật dạy: Nếu Bồ Tát không có các kiến chấp cũng không tưởng niệm, đó là thuần thục.

Đối với hàng Thanh Văn và tất cả chúng sinh không tu tập pháp bình đẳng, xa lìa giáo pháp của Phật, cũng không khuyến khích họ ưa thích hạnh Đại Thừa, nghi ngờ về các thông tuệ, xa lìa pháp vô nguyện, cũng không diệt độ, mà ở nơi cảnh giới tịch tĩnh có thể chứng biết được tâm Bồ Tát thì chí cũng ở nơi hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà hội nhập vào diệt độ.

Này thiện nam! Bồ Tát nào có thể nhập vào tướng tịch diệt, đều có thể phân biệt các pháp, phát tâm nương theo Phật, Pháp, Tăng, tu tập pháp đại thừa, là chỗ sinh ra các thông tuệ, thương yêu tất cả chúng sinh, phát thệ nguyện rộng lớn làm lợi ích cho mọi loài chưa từng quên mất.

Vì sao?

Này thiện nam! Nên quán như vậy. Đối với Bồ Tát hành hóa thuần thục đều có thể đi vào chỗ tịch diệt.

Bồ Tát Ly Cấu Oai bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là việc chưa từng! Chỗ hành hóa của Bồ Tát là rất đặc biệt, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác có thể sánh kịp.

Bồ Tát Câu Tỏa bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hôm nay Bồ Tát Phổ Thủ Văn Thù ở trong chúng hội chỉ an tọa im lặng, cũng không giảng thuyết về pháp tam muội này.

Bạch Thế Tôn! Làm sao biết được tâm niệm của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là đã dùng tâm quan sát thanh tịnh?

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đáp: Con đường hành trì của Bồ Tát không vì công đức tu tập Phật đạo, không vì lợi dưỡng, không vì sinh thiên, không vì của cải, không vì danh tiếng mà tán thán, tuyên dương các việc phước đức ấy, không vì áo cơm, giường nằm, thuốc men, sinh hoạt, không vì việc ban thuởng của nhà Vua, Đại Thần.

Bồ Tát Câu Tỏa hỏi: Vì sao Bồ Tát hành đạo?

Bồ Tát Văn Thù đáp: Vì thương xót chúng sinh, nên dùng giáo pháp để giáo hóa. Vì chí cầu pháp Đại Thừa nên trừ bỏ hư vọng, khổ não. Vì sinh tịch diệt nên nhẫn chịu nhiều khổ nhọc, nhằm tạo mọi an ổn cho chúng sinh như điều đã nguyện.

Vì không có hồ nghi, không có mong cầu nên không vướng mắc, cũng không nương tựa, cũng không thọ nhận, không ở một mình, cũng không rốt ráo, không hoàn hảo, cũng không ngã, ngã sở, không có nhớ nghĩ, cũng không thoái lui, không trở lại.

Nếu các pháp không có lay chuyển cũng không rung động động, không có qua lại, không có nguy hại, không có hoan hỷ, cũng không ưu sầu, dũng mãnh, không thể thù thắng, không thể chế ngự, không thể vượt qua, cũng không hao tổn, không kính phục cũng không sợ hãi, không chọn lựa cũng không tàn hại, không có tự đại, tâm ý cũng không ở chỗ vắng lặng thường trụ vô niệm, đồng nghĩa nhất thừa, nhất giáo cũng như thường hành bình đẳng, đều nhằm để cứu độ chúng sinh.

Này thiện nam! Nẻo hành hóa của Bồ Tát như vậy nên tạo lập các hạnh.

Bồ Tát Câu Tỏa hỏi: Vì sao Bồ Tát thực hành bố thí?

Bồ Tát Văn Thù đáp: Này thiện nam! Đối với sự cùng tận, Bồ Tát không thực hành, cũng không khởi, cũng chẳng phải là không khởi, rốt ráo đến chỗ cùng tận, không nhớ nghĩ các pháp, xưa nay không sinh cũng không chỗ sinh, cũng không thông tỏ tạo tác. Bồ Tát thực hành như vậy mới tương ưng với đạo.

Lại nữa, này Bồ Tát Câu Tỏa! Bồ Tát không thực hành cùng tận về ý quá khứ. Đối với tâm vị lai cũng không sinh khởi. Đối với tâm hiện tại cũng không chỗ trụ, cũng không chỗ hành, cũng không vướng mắc nơi tâm quá khứ, hiện tại, vị lai. Bồ Tát tu hành như vậy mới tương ưng với đạo.

Lại nữa, này Bồ Tát Câu Tỏa! Tâm bố thí chúng sinh và cúng dường Như Lai không có hai. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đạo mà chúng sinh đạt đến thành Phật tức cũng không có hai. Nếu Bồ Tát thường tuân theo sáu pháp Ba la mật mà thực hành thì việc thực hành ấy hoàn toàn không có ưu sầu. Tu hành như thế tức là Bồ Tát thực hành tương ưng với đạo.

Lại nữa, này Bồ Tát Câu Tỏa! Bồ Tát không thực hành về sắc, không. Sắc tự nó là không. Cũng không thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức tự nhiên là không. Cũng không dạy người hành sắc là không. Sắc tức không, xưa nay cùng tận tức là tự nhiên. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, hoặc sẽ cùng tận, hoặc xưa nay không cùng tận, nên gọi là thức không, cũng là tự nhiên.

Nếu đã cùng tận thì tất cả các pháp cũng sẽ cùng tận. Nếu các pháp cùng tận thì sắc cũng sẽ cùng tận. Thọ, tưởng, hành, thức cũng sẽ cùng tận. Nếu tất cả các sắc cùng tận thì tất cả các pháp cũng sẽ cùng tận. Nếu tất cả các pháp cùng tận thì thức cũng sẽ cùng tận. Bồ Tát nào tu hành như vậy là thực hành tương ưng với đạo.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần