Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẬT THUYẾT KINH
NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý
HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẦN BA
Lại nữa, Hải Ý! Làm thế nào để có thể tôi luyện tâm báu nhất thiết trí?
Đó là, trước phải tu đủ ba tịnh giới, mười nghiệp thiện. Tâm từ tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa nên dùng tâm thanh tịnh quán xem tất cả chúng sinh.
Vì tâm bi tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa, nên tùy theo các chúng sinh làm việc gì đều đến giúp đỡ. Vì tâm hỷ tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa, nên tất cả chúng sinh có các pháp thiện đều vì họ mà làm cho thành tựu. Vì tâm xả tùy chúng sinh mà chuyển hóa, nên đối với tất cả chúng sinh không làm tổn hại.
Vì không dua nịnh, dối trá nên tâm chánh trực. Vì không lười biếng nên đối với việc lợi ích, tâm luôn siêng làm. Vì tâm tự tại nên có thể phát khởi tất cả thiện căn, được chánh niệm, chánh tri. Vì khéo điều phục tâm nên tâm ung dung. Vì thường ít ham muốn nên có thể tu các công đức Đầu đà. Vì có thể khéo nuôi dưỡng, phát sinh biết đủ nên không đoạn Thánh chủng.
Vì đối với Tôn sư, Thánh Hiền, không sinh tâm xem thường, mà luôn phát khởi sự khiêm tốn, cung kính nên tâm an định. Vì lìa ngã mạn và tăng thượng mạn, không ô trược loạn động nên tâm thanh tịnh. Vì không ỷ lại nên luôn tu hành. Vì không chê bai người khác nên có thể bảo hộ chúng sinh.
Vì lìa tăng thượng mạn nên có thể gần gũi chánh pháp, nhận lãnh thuốc pháp. Vì đối với các nghĩa có thể thấu rõ nên làm người cầu pháp. Vì đối với các pháp, lúc đầu còn cạn sau sâu rộng tăng dần nên có thể đầy đủ pháp dục. Vì tu hạnh không tranh cãi nên thường được pháp lạc. Vì xa lìa phi pháp nên thường xuyên cầu chánh pháp.
Vì đối với Tam bảo luôn biết hổ thẹn nên thuờng không dứt lòng tin trong sạch. Vì tin vào nghiệp báo nên đối với tất cả pháp thiện đều tác ý như lý. Vì tu hạnh chân chánh nên đối với dáng vẻ oai nghi luôn ẩn tàng tịch tĩnh. Vì tâm không cao ngạo nên thường nhu hòa.
Vì siêng hành thiền định nên xa lìa trạo cử. Vì khéo an trú tuệ nên không chê, không khen. Vì an nhiên bất động nên tâm như núi chúa. Vì luôn rời bỏ các sự ngăn cách cao thấp nên tâm như đất. Vì trong ý thanh tịnh nên tâm như nước. Vì không có tưởng sai khác nên tâm như lửa. Vì không dính mắc nên tâm như gió.
Vì vi diệu không cấu bẩn nên tâm như hư không. Vì dốc cầu xuất gia nên tâm có thể khiến cho Phật nhãn vĩnh viễn không mất. Vì thân thường lìa bỏ nên ưa tu hạnh vắng lặng. Vì tâm luôn xa dứt nên thường hành chánh pháp. Vì đối với các việc làm không bị cảnh trần chi phối nên nói lời chân thật. Vì thệ nguyện soi sáng nên có thể làm như lời nói. Vì không bị phiền não lôi kéo nên tâm thường thanh tịnh.
Vì rốt ráo không bị phá hoại nên có thể tu tập tịnh giới, cho đến vì còn lo sợ tội nhỏ nên đối với giới không hề thiếu sót hủy hoại. Vì chẳng cầu sinh Thiên nên đối với giới không dứt. Vì giữ hạnh thuần nhất trong trắng nên giới không ô nhiễm.
Vì luôn gần gũi Thiện tri thức nên được khai mở đạo đại Bồ Đề. Vì mắt thanh tịnh nên được ánh sáng vô ngại. Vì tai thanh tịnh nên được âm thanh vô ngại. Vì mũi thanh tịnh nên được mùi thơm vô ngại. Vì lưỡi thanh tịnh nên được vị vô ngại. Vì thân thanh tịnh nên được xúc vô ngại. Vì ý thanh tịnh nên được pháp vô ngại.
Lại nữa, này Bồ Tát Hải Ý! Nếu người muốn lìa sự ràng buộc của tham thì cần phải thường tu quán Bất tịnh. Muốn lìa sự ràng buộc của sân thì tu quán tâm từ. Muốn lìa sự ràng buộc của si thì tu quán duyên sinh.
Muốn trừ năm sự ngăn che thì quán kỹ năm Căn. Muốn nhổ các chướng thì làm thanh tịnh năm lực. Vì muốn dứt các phiền não hiện khởi nên ở nơi đạo xuất ly thường phải thanh tịnh. Vì tu chánh hạnh nên có thể xa lìa sự sợ hãi, tham, sân, si, mạn…
Vì tâm không keo kiệt nên có thể hành pháp thí. Vì không tiếc rẻ, gồm thâu, nên có thể hành tài thí. Vì tâm đại Bồ Đề thường kiên cố nên không ưa pháp của thừa khác. Vì nội tâm vắng lặng nên các căn ẩn mật. Vì ngoại cảnh vắng lặng nên khéo quán xét các lầm lỗi. Vì ở trong sinh tử thường sợ hãi, nên không tạo các tội. Vì tâm không mệt mỏi nên chứa nhóm thiện căn mà không biết đủ.
Vì vượt qua bốn dòng chảy nên thường khéo tu tập thuyền pháp Đại Thừa. Vì khiến cho chúng sinh đạt đến bờ kia nên khéo làm cầu đường. Bồ Tát thường dùng tâm không lười biếng, thoái thất, dẫn dắt các chúng sinh ra khỏi bùn lầy sinh tử, đưa đến chỗ an ổn.
Này Hải Ý! Nếu Bồ Tát tu tập đủ các hành tướng như thế thì liền đắc hạnh bố thí viên mãn, cũng có thể đắc hạnh trì giới thanh tịnh. Đây là tâm báu nhất thiết trí khéo tu sửa mà Bồ Tát đã phát.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại ý nghĩa trên bằng bài tụng:
Trước phải giữ thân ngữ tâm tốt
Phòng hộ bằng mười nghiệp thanh tịnh
Tâm từ quán xem các chúng sinh
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Tâm bi giúp đỡ việc của người
Tâm hỷ mừng người khác thành công
Tâm xả chẳng hại các chúng sinh
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Không nịnh, không dối, tâm thường chánh
Dừng tội, thường tu việc lợi ích
Thâm tâm tăng trưởng các thiện căn
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Tâm tự tại nên nghĩ chánh tri
Khéo điều phục tâm, tâm ung dung
Thiểu dục là nhân tu Đầu Đà
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Vui đủ khéo hành nơi dòng Thánh
Lại thường cung kính bậc Tôn Sư
Không bao giờ sinh tâm khinh rẻ
Ngã mạn, tà mạn đều xa lìa
Tâm định, không khởi tăng thượng mạn
Vì không trược loạn, tâm thanh tịnh
Không ỷ mình nên tự biết rõ
Không chê người nên được người giúp.
Gần gũi thấm sâu thuốc diệu pháp
Lìa tăng thượng mạn trị các bệnh
Mong pháp gọi là người cầu pháp
Siêng cầu pháp mới đủ pháp lực.
Tu hạnh không tranh là mộ pháp
Lìa phi pháp nên luôn cầu pháp
Chẳng hoại Tam Bảo đủ tín tâm
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Với pháp bất thiện, tâm xau hổ
Đối các Như Lai, khởi tâm thẹn
Đầy đủ hổ thẹn hộ các căn
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Hiểu rõ nghiệp báo, việc làm tốt
Tin hiểu không đắm tâm thiên chấp
Với pháp duyên sinh không chống trái
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Khéo giữ oai nghi tu chánh hạnh
Tâm không cao ngạo, thường nhu hòa
Trạo cử chẳng sinh, tu chánh hạnh
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Khéo trú tuệ nên không khen, chê
Người thấy an nhiên như núi chúa
Bền vững với nguyện, không thoái tâm
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Khổ vui bất động, tâm như đất
Ý trong như nước, lắng cáu bẩn
Tâm như lửa, không sinh tưởng khác
Tâm như gió thổi không vướng mắc.
Tâm như hư không đẹp, trong sạch
Cần cầu xuất gia Phật nhãn sáng
Thân xa lìa, tâm tu vắng lặng
Tâm xa lìa, thường nương chánh pháp.
Làm việc thường nói lời chân thật
Làm như lời nói, thệ nguyện sáng
Thanh tịnh, không hề bị cấu nhiễm
Vì không phá hủy, tu giới hạnh.
Nơi giới không khuyết cũng không hoại
Tội nhỏ bị phạm, tâm rất sợ
Giữ giới cũng không cầu sinh Thiên
Giới thường trong trắng, không ô trược.
Thường hay gần gũi thiện tri thức
Đều vì khai sáng tâm bồ đề
Ánh sáng suốt thông chiếu thế gian
Đều do đạt được mắt thanh tịnh.
Người trí tùy nghe các thứ âm
Chẳng sinh mừng vui, chẳng sinh chán
Tất cả âm thanh rõ nghĩa vô
Là do đạt được mắt thanh tịnh.
Mũi hương, lưỡi vị đều như thế
Thân xúc, ý pháp cũng như vậy
Xúc chạm cao thấp, tưởng chẳng sinh
Đều do đạt được căn thanh tịnh.
Muốn lìa tham nhiễm và sân si
Nên tu tâm từ, quán bất tịnh
Lại khéo léo tu pháp duyên sinh
Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.
Nếu muốn trừ bỏ năm triền cái
Cần phải khéo léo quán năm căn
Muốn dứt buộc ràng của các chướng
Khéo an trú năm lực thanh tịnh.
biết đạo xuất ly trừ chướng ngại
Xa lìa không chắc, trụ bền chắc
Luôn siêng tu tập bốn niệm xứ
Với chánh đoạn, thần túc cũng vậy.
Lại thường tăng tiến bảy giác phần
Cũng lại tiến tu tám Thánh đạo
Không tham, không sân, không sợ hãi
Khéo giữ các căn lìa sân kết.
Không keo kiệt thường hành pháp thí
Không sinh tiếc nuối, ái hộ tâm
Của cải không gom thường bố thí
Tâm Bồ Đề ấy nay thành tựu.
Với của báu không mong thu lấy
Không bỏ Bồ Đề, chẳng cau báo
Thâu tóm chúng sinh nên thường hành
Bố thí, ái ngữ, lợi, đồng sự.
Đối với tâm bồ đề không bỏ
Cũng không mến ưa các thừa khác
Quán pháp môn công đức Như Lai
Tâm vững chắc như núi Tu Di.
Nội tâm vắng lặng biết lỗi mình
Ngoài hộ người khác, chịu chê trách
Trong các việc làm lìa lầm lỗi
Vì sợ sinh tử, chẳng tạo tội.
Siêng hành pháp thiện không biếng lười
Nghiêm tịnh Cõi Phật chẳng mệt mỏi
Hộ pháp chẳng sinh tâm giảm sút
Độ thoát chúng sinh không thoái đọa.
Thường siêng tu bổ thuyền đại pháp
Cứu vớt biển sinh tử bốn loài
Lại làm cầu, bè đưa chúng sinh
Dẫn đến Niết Bàn, nơi an lạc.
Vớt chúng sinh ra khỏi bùn sâu
Đưa đến nơi sạch sẽ, không sợ
Chúng sinh sợ hãi, ban an ủi
Tự độ, độ tha đến bờ kia.
Nếu đối pháp này khéo thành tựu
Tức là Bồ Tát không còn sợ
Vị ấy thường tịnh tâm bồ đề
Các bẩn phiền não không thể nhiễm.
Hư không không bẩn, còn thể nhiễm
Hư không không dấu còn thể thấy
Tâm bồ đề không nhiễm phiền não
Tự tánh xưa nay thường thanh tịnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba