Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý

HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Duy Tịnh, Đời Triệu Tống  

PHẦN BA  

Lại nữa, Hải Ý! Làm thế nào để có thể tôi luyện tâm báu nhất thiết trí?

Đó là, trước phải tu đủ ba tịnh giới, mười nghiệp thiện. Tâm từ tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa nên dùng tâm thanh tịnh quán xem tất cả chúng sinh.

Vì tâm bi tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa, nên tùy theo các chúng sinh làm việc gì đều đến giúp đỡ. Vì tâm hỷ tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa, nên tất cả chúng sinh có các pháp thiện đều vì họ mà làm cho thành tựu. Vì tâm xả tùy chúng sinh mà chuyển hóa, nên đối với tất cả chúng sinh không làm tổn hại.

Vì không dua nịnh, dối trá nên tâm chánh trực. Vì không lười biếng nên đối với việc lợi ích, tâm luôn siêng làm. Vì tâm tự tại nên có thể phát khởi tất cả thiện căn, được chánh niệm, chánh tri. Vì khéo điều phục tâm nên tâm ung dung. Vì thường ít ham muốn nên có thể tu các công đức Đầu đà. Vì có thể khéo nuôi dưỡng, phát sinh biết đủ nên không đoạn Thánh chủng.

Vì đối với Tôn sư, Thánh Hiền, không sinh tâm xem thường, mà luôn phát khởi sự khiêm tốn, cung kính nên tâm an định. Vì lìa ngã mạn và tăng thượng mạn, không ô trược loạn động nên tâm thanh tịnh. Vì không ỷ lại nên luôn tu hành. Vì không chê bai người khác nên có thể bảo hộ chúng sinh.

Vì lìa tăng thượng mạn nên có thể gần gũi chánh pháp, nhận lãnh thuốc pháp. Vì đối với các nghĩa có thể thấu rõ nên làm người cầu pháp. Vì đối với các pháp, lúc đầu còn cạn sau sâu rộng tăng dần nên có thể đầy đủ pháp dục. Vì tu hạnh không tranh cãi nên thường được pháp lạc. Vì xa lìa phi pháp nên thường xuyên cầu chánh pháp.

Vì đối với Tam bảo luôn biết hổ thẹn nên thuờng không dứt lòng tin trong sạch. Vì tin vào nghiệp báo nên đối với tất cả pháp thiện đều tác ý như lý. Vì tu hạnh chân chánh nên đối với dáng vẻ oai nghi luôn ẩn tàng tịch tĩnh. Vì tâm không cao ngạo nên thường nhu hòa.

Vì siêng hành thiền định nên xa lìa trạo cử. Vì khéo an trú tuệ nên không chê, không khen. Vì an nhiên bất động nên tâm như núi chúa. Vì luôn rời bỏ các sự ngăn cách cao thấp nên tâm như đất. Vì trong ý thanh tịnh nên tâm như nước. Vì không có tưởng sai khác nên tâm như lửa. Vì không dính mắc nên tâm như gió.

Vì vi diệu không cấu bẩn nên tâm như hư không. Vì dốc cầu xuất gia nên tâm có thể khiến cho Phật nhãn vĩnh viễn không mất. Vì thân thường lìa bỏ nên ưa tu hạnh vắng lặng. Vì tâm luôn xa dứt nên thường hành chánh pháp. Vì đối với các việc làm không bị cảnh trần chi phối nên nói lời chân thật. Vì thệ nguyện soi sáng nên có thể làm như lời nói. Vì không bị phiền não lôi kéo nên tâm thường thanh tịnh.

Vì rốt ráo không bị phá hoại nên có thể tu tập tịnh giới, cho đến vì còn lo sợ tội nhỏ nên đối với giới không hề thiếu sót hủy hoại. Vì chẳng cầu sinh Thiên nên đối với giới không dứt. Vì giữ hạnh thuần nhất trong trắng nên giới không ô nhiễm.

Vì luôn gần gũi Thiện tri thức nên được khai mở đạo đại Bồ Đề. Vì mắt thanh tịnh nên được ánh sáng vô ngại. Vì tai thanh tịnh nên được âm thanh vô ngại. Vì mũi thanh tịnh nên được mùi thơm vô ngại. Vì lưỡi thanh tịnh nên được vị vô ngại. Vì thân thanh tịnh nên được xúc vô ngại. Vì ý thanh tịnh nên được pháp vô ngại.

Lại nữa, này Bồ Tát Hải Ý! Nếu người muốn lìa sự ràng buộc của tham thì cần phải thường tu quán Bất tịnh. Muốn lìa sự ràng buộc của sân thì tu quán tâm từ. Muốn lìa sự ràng buộc của si thì tu quán duyên sinh.

Muốn trừ năm sự ngăn che thì quán kỹ năm Căn. Muốn nhổ các chướng thì làm thanh tịnh năm lực. Vì muốn dứt các phiền não hiện khởi nên ở nơi đạo xuất ly thường phải thanh tịnh. Vì tu chánh hạnh nên có thể xa lìa sự sợ hãi, tham, sân, si, mạn…

Vì tâm không keo kiệt nên có thể hành pháp thí. Vì không tiếc rẻ, gồm thâu, nên có thể hành tài thí. Vì tâm đại Bồ Đề thường kiên cố nên không ưa pháp của thừa khác. Vì nội tâm vắng lặng nên các căn ẩn mật. Vì ngoại cảnh vắng lặng nên khéo quán xét các lầm lỗi. Vì ở trong sinh tử thường sợ hãi, nên không tạo các tội. Vì tâm không mệt mỏi nên chứa nhóm thiện căn mà không biết đủ.

Vì vượt qua bốn dòng chảy nên thường khéo tu tập thuyền pháp Đại Thừa. Vì khiến cho chúng sinh đạt đến bờ kia nên khéo làm cầu đường. Bồ Tát thường dùng tâm không lười biếng, thoái thất, dẫn dắt các chúng sinh ra khỏi bùn lầy sinh tử, đưa đến chỗ an ổn.

Này Hải Ý! Nếu Bồ Tát tu tập đủ các hành tướng như thế thì liền đắc hạnh bố thí viên mãn, cũng có thể đắc hạnh trì giới thanh tịnh. Đây là tâm báu nhất thiết trí khéo tu sửa mà Bồ Tát đã phát.

Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại ý nghĩa trên bằng bài tụng:

Trước phải giữ thân ngữ tâm tốt

Phòng hộ bằng mười nghiệp thanh tịnh

Tâm từ quán xem các chúng sinh

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Tâm bi giúp đỡ việc của người

Tâm hỷ mừng người khác thành công

Tâm xả chẳng hại các chúng sinh

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Không nịnh, không dối, tâm thường chánh

Dừng tội, thường tu việc lợi ích

Thâm tâm tăng trưởng các thiện căn

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Tâm tự tại nên nghĩ chánh tri

Khéo điều phục tâm, tâm ung dung

Thiểu dục là nhân tu Đầu Đà

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Vui đủ khéo hành nơi dòng Thánh

Lại thường cung kính bậc Tôn Sư

Không bao giờ sinh tâm khinh rẻ

Ngã mạn, tà mạn đều xa lìa

Tâm định, không khởi tăng thượng mạn

Vì không trược loạn, tâm thanh tịnh

Không ỷ mình nên tự biết rõ

Không chê người nên được người giúp.

Gần gũi thấm sâu thuốc diệu pháp

Lìa tăng thượng mạn trị các bệnh

Mong pháp gọi là người cầu pháp

Siêng cầu pháp mới đủ pháp lực.

Tu hạnh không tranh là mộ pháp

Lìa phi pháp nên luôn cầu pháp

Chẳng hoại Tam Bảo đủ tín tâm

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Với pháp bất thiện, tâm xau hổ

Đối các Như Lai, khởi tâm thẹn

Đầy đủ hổ thẹn hộ các căn

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Hiểu rõ nghiệp báo, việc làm tốt

Tin hiểu không đắm tâm thiên chấp

Với pháp duyên sinh không chống trái

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Khéo giữ oai nghi tu chánh hạnh

Tâm không cao ngạo, thường nhu hòa

Trạo cử chẳng sinh, tu chánh hạnh

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Khéo trú tuệ nên không khen, chê

Người thấy an nhiên như núi chúa

Bền vững với nguyện, không thoái tâm

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Khổ vui bất động, tâm như đất

Ý trong như nước, lắng cáu bẩn

Tâm như lửa, không sinh tưởng khác

Tâm như gió thổi không vướng mắc.

Tâm như hư không đẹp, trong sạch

Cần cầu xuất gia Phật nhãn sáng

Thân xa lìa, tâm tu vắng lặng

Tâm xa lìa, thường nương chánh pháp.

Làm việc thường nói lời chân thật

Làm như lời nói, thệ nguyện sáng

Thanh tịnh, không hề bị cấu nhiễm

Vì không phá hủy, tu giới hạnh.

Nơi giới không khuyết cũng không hoại

Tội nhỏ bị phạm, tâm rất sợ

Giữ giới cũng không cầu sinh Thiên

Giới thường trong trắng, không ô trược.

Thường hay gần gũi thiện tri thức

Đều vì khai sáng tâm bồ đề

Ánh sáng suốt thông chiếu thế gian

Đều do đạt được mắt thanh tịnh.

Người trí tùy nghe các thứ âm

Chẳng sinh mừng vui, chẳng sinh chán

Tất cả âm thanh rõ nghĩa vô

Là do đạt được mắt thanh tịnh.

Mũi hương, lưỡi vị đều như thế

Thân xúc, ý pháp cũng như vậy

Xúc chạm cao thấp, tưởng chẳng sinh

Đều do đạt được căn thanh tịnh.

Muốn lìa tham nhiễm và sân si

Nên tu tâm từ, quán bất tịnh

Lại khéo léo tu pháp duyên sinh

Đó là ngọc sáng nhất thiết trí.

Nếu muốn trừ bỏ năm triền cái

Cần phải khéo léo quán năm căn

Muốn dứt buộc ràng của các chướng

Khéo an trú năm lực thanh tịnh.

biết đạo xuất ly trừ chướng ngại

Xa lìa không chắc, trụ bền chắc

Luôn siêng tu tập bốn niệm xứ

Với chánh đoạn, thần túc cũng vậy.

Lại thường tăng tiến bảy giác phần

Cũng lại tiến tu tám Thánh đạo

Không tham, không sân, không sợ hãi

Khéo giữ các căn lìa sân kết.

Không keo kiệt thường hành pháp thí

Không sinh tiếc nuối, ái hộ tâm

Của cải không gom thường bố thí

Tâm Bồ Đề ấy nay thành tựu.

Với của báu không mong thu lấy

Không bỏ Bồ Đề, chẳng cau báo

Thâu tóm chúng sinh nên thường hành

Bố thí, ái ngữ, lợi, đồng sự.

Đối với tâm bồ đề không bỏ

Cũng không mến ưa các thừa khác

Quán pháp môn công đức Như Lai

Tâm vững chắc như núi Tu Di.

Nội tâm vắng lặng biết lỗi mình

Ngoài hộ người khác, chịu chê trách

Trong các việc làm lìa lầm lỗi

Vì sợ sinh tử, chẳng tạo tội.

Siêng hành pháp thiện không biếng lười

Nghiêm tịnh Cõi Phật chẳng mệt mỏi

Hộ pháp chẳng sinh tâm giảm sút

Độ thoát chúng sinh không thoái đọa.

Thường siêng tu bổ thuyền đại pháp

Cứu vớt biển sinh tử bốn loài

Lại làm cầu, bè đưa chúng sinh

Dẫn đến Niết Bàn, nơi an lạc.

Vớt chúng sinh ra khỏi bùn sâu

Đưa đến nơi sạch sẽ, không sợ

Chúng sinh sợ hãi, ban an ủi

Tự độ, độ tha đến bờ kia.

Nếu đối pháp này khéo thành tựu

Tức là Bồ Tát không còn sợ

Vị ấy thường tịnh tâm bồ đề

Các bẩn phiền não không thể nhiễm.

Hư không không bẩn, còn thể nhiễm

Hư không không dấu còn thể thấy

Tâm bồ đề không nhiễm phiền não

Tự tánh xưa nay thường thanh tịnh.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần