Phật Thuyết Kinh Phật đỉnh Phóng Vô Cấu Quang Minh Nhập Phổ Môn Quán Sát Nhất Thiết Như Lai Tâm đà La Ni
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thi Hộ, Đời Tống
PHẬT THUYẾT KINH
PHẬT ĐỈNH PHÓNG VÔ CẤU QUANG
MINH NHẬP PHỔ MÔN QUÁN SÁT
NHẤT THIẾT NHƯ LAI TÂM ĐÀ LA NI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
Như vậy tôi nghe!
Một thời Đức Thế Tôn ngự tại cung Trời Đổ Sử cùng với chúng Đại Bồ Tát và các quyến thuộc với các Thiên Chúng, Phạm Vương, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Tối Tiên Thiên Tử… đại chúng đều đến tập hội.
Bấy giờ Đức Thế Tôn y theo sáu Ba la mật nói pháp là:
Đàn Ba la mật: Quả báo của bố thí sẽ được nhóm phước đức lớn, được bất thoái chuyển tự tại. Trời tuôn mưa bảy báu, chẳng cầu tự được. Các kho tàng lớn bị chôn dấu đại phục tàng tự nhiên xuất hiện.
Nói Thi La Ba la mật: Ấy là quả báo của tịnh giới đắc được năm thông ngũ thông mà sanh về Cõi Phạm Thiên.
Nói Sạn Đề Ba la mật: Ấy là quả báo của nhẫn nhục đắc được sắc tướng tốt đẹp trang nghiêm của Cõi Trời mà tất cả ưa nhìn.
Nói Tỳ Lê Gia Ba la mật: Ấy là muốn tu tinh tiến khiến cho Ma Vương ấy nhìn thấy liền hàng phục, đắc được quả báo vượt ra khỏi sinh tử, trong phút chốc du ngoạn Cõi Phật.
Nói Thiền Ba la mật: Ấy là quả bảo của tĩnh lực đắc được Thù Lăng Nghiêm Tam Ma Địa, lại được vô số trăm ngàn câu chi na do đa Tam Ma Địa.
Nói Bát Nhã Ba la mật: Ấy là quả báo của trí tuệ đắc được nhóm phước lớn, được Đa Văn ấy rộng lớn như biển cả.
Khi ấy nhóm Thiên Chúng ấy nghe pháp của sáu Ba la mật này xong thì tâm rất vui vẻ, ngày đêm suy tư, tu hành, quán sát.
Lúc đó có Đao Lợi Thiên Tử tên là Ma Ni Tạng Vô Cấu cùng với trăm ngàn câi chi Thiên Tử quyến thuộc, một vạn tám ngàn Thiên Nữ quyến thuộc và cung điện của Cõi Trời, thần thông biến hóa bảy báu trang nghiêm lầu gác cao diệu, mọi loại cung điện, mọi loại vườn hoa vườn thú, ao đầm, hoa quả… thảy đều nghiêm sức.
Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử ấy cùng với Diệu Câu Tô Ma Hoa Thiên Nữ rất yêu thích nhau, đi ngồi đều cùng nhau thọ nhận niềm khoái lạc của Cõi Trời.
Đối với bảy báu, bốn cửa, trong Điện thọ năm dục lạc, say mê đắm trước, tỏ bày ngã mạn, buông thả ngủ say.
Thời đến khoảng nửa đêm, Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử ấy nằm mộng chiêm bao thấy tất cả Thiên Nữ tấu âm nhạc mầu nhiệm thì cung điện ấy có vị Cự Khẩu Thiên Dược Xoa phát ra tiếng nói khuyên Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử đó như vậy: Ma Ni Tạng Vô Cấu! Vì sao yêu thích cung điện, đắm trước mê ngủ đều chẳng giác ngộ mà lại nằm yên?
Người Trời như ông nên biết khoái lạc chẳng lâu, sau đó bảy ngày ắt mệnh vô thường.
Tuy sự khoái lạc của Cõi Trời, cung điện bảy báu thù diệu không thể so sánh mà mệnh của ông chấm dứt, phút chốc ngừng chuyển! Việc này chân thật nên tự suy tư mà nghĩ tìm phương tiện mau chóng!…
Khi Cự Khẩu Thiên Dược Xoa nói lời đó xong, đột nhiên chẳng hiện. Lúc đó Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử nghe lời này xong thì tâm rất khổ não giống như mê say, nóng nảy muốn chết rồi té xuống, đầu mặt chạm đất, nằm cứng đơ.
Thời chúng Thiên Nữ nhìn thấy việc này xong thảy đều buồn lo, khóc lóc, nước mắt tuôn chảy như mưa, sợ hãi luống cuống, khổ não ngàn điều.
Lại thấy tóc trên đầu của vị Trời ấy rối bời. Quần áo, Anh Lạc, các vật nghiêm thân đều vứt bỏ một bên, mặt mắt nhiễm máu, môi miệng héo khô, sầu não bội phần, kêu xưng Khổ thay! Như lửa đốt tim, nóng nảy muốn chết té xuống đất, cũng lại mê loạn đánh mất bản tâm, cũng như con cá bị mất nước giãy dụa trên mặt đất, mọi thứ buồn than, gào khóc kêu Trời.
Trong đó, có người chẳng bị mất tâm, đem vật báu của Cõi Trời chứa đầy nước lạnh với hương Chiên Đàn rưới vảy thân ấy hoặc lại chỉnh sửa búi tóc, hoặc chỉnh sửa áo, hoặc nâng bàn chân. Thời Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử dần thức tỉnh lại.
Đã tỉnh ngộ xong, trong khoảng rất lâu, miệng xưng khổ quá! rất ư ưu não, than vắn thở dài, thân thể run rẩy như gió thổi cỏ nghiêng ngả chẳng định, tiếng nói nhỏ nhiệm bèn phát tâm ấy Nay ta mau chóng qua chỗ của Trời Đế Thích.
Đến nơi ấy xong, lễ bàn chân của Đế Thích rồi nói như vậy: Thiên Chủ cứu con! Thiên Chủ cứu con! Nói việc như trên, nghe Cự Khẩu Thiên Dược Xoa nói rằng bảy ngày sau, con ắt sẽ mệnh chung. Con nghĩ mọi khổ bức não của địa ngục, do đó gấp rút đến bạch với Thiên Chủ, làm phương tiện nào để được giải thoát, khiến con chẳng chết, chẳng bị đọa vào nẻo ác.
Thiên Chủ! Nguyện làm cứu hộ, khiến lìa khổ chết!
Bảo như vậy xong. Lúc đó Đế Thích Thiên Chủ nghe nói xong, biết tâm khổ thiết nên bảo Vô Cấu Thiên Tử rằng: Ma Ni Tạng Vô Cấu đừng sợ! Chỗ kia có Đức Phật Thế Tôn là thầy của Trời Người, là đấng Vô Thượng Sĩ xuất hiện ở đời mà có thuốc Pháp hay cứu sinh, già, bệnh, chết cùng với phiền não, xa lìa địa ngục cho đến tất cả nẻo ác đều khiến phá hoại như bậc cha mẹ kia hay cứu tế giúp ngươi. Nay ta bảo ngươi, Đấng Đại Giác Thế Tôn ngự tại cung Đổ Sử Đa. Ngươi có thể gấp rút đi đến đó.
Bấy giờ, Đế Thích Thiên Chủ và Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Thử cùng với vô số Thiên Nữ đi đến cung Đổ Sử Đa, nơi Đức Thế Tôn ngự. Đến nơi đó xong, cúi đầu mặt sát đất lễ bàn chân của Đức Thế Tôn, nhiễu quang ba vòng rồi trụ trước mặt Đức Thế Tôn
Khi ấy, Đế Thích Thiên Chủ lo buồn tiều tụy bạch Thế Tôn rằng: Cự Khẩu Thiên Dược Xoa kia bảo Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử rằng: Bảy ngày sau ông tất sẽ mệnh chung.
Thế Tôn! Làm phương tiện nào để khiến tu hành được miễn khổ này.
Lúc đó Đức Thế Tôn nghe Đế Thích Thiên Chủ nói xong thì tác suy tư, thấy việc đó xong. Tức ở trong miệng phóng mọi loại sắc quang. Ánh sáng ấy chiếu khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới. Ánh sáng chiếu bảo tất cả cung điện của Trời Người với Rồng, Kiền Thát Bà, A Tố Lạc, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Ma Hộ La Nga, Dược Xoa, La Sát, Bộ Đa… xong thì ánh sáng ấy quay lại đến chỗ Phật ngự, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi lại nhập vào miệng.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Đế Thích Thiên Chủ rằng: Thiên Chủ hãy lắng nghe! Sau bảy ngày, Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử ấy quyết định mệnh chung sẽ bị đọa vào địa ngục chịu khổ não lớn, đau nhức vô lượng, rất ư sợ hãi.
Ra địa ngục xong lại sinh vào nhân gian, sinh trong nhà xí ở nhà người thợ làm tre trúc nơi thành Ba La Nại, làm nữ quỷ mặt heo, luôn ăn phân với nước tiểu. Trong nhà xí ấy lại có trăm ngàn câu chi giòi, trùng thường ở ba thời ăn rỉa hết thịt thân của nữ quỷ chỉ còn xương cốt. Do nghiệp lực cho nên thân ấy lại đầy đủ thịt. Thọ thân như vậy đủ bảy năm.
Sau đó, mệnh chung lại sinh làm con rùa ở nơi hoang vắng. Trong chốn hoang vắng ấy chẳng nghe tiếng nước huống chi lại có nước. Lại không có cây gỗ, cũng không có bóng mát, thường ở trong ánh nắng mặt trời, thân thể như bị thiêu đốt, chỉ ăn đất nóng. Lại bị chim mổ thân ấy rơi rụng từng miếng. Do nghiệp lực cho nên thân thể tùy sinh, lại bị phá vỡ. Chịu khổ như vậy đủ năm năm.
Sau đó mệnh chung, lại sinh ở thành ấy, làm con cá có thân rộng lớn. Do nghiệp lực nên rơi vào chỗ không có nước rồi bị chó sói, chuột, chó, thú Nê Tỳ Ca đều lấy ăn. Lại có mọi loài cầm thú cũng đến ăn nuốt. Do nghiệp lực cho nên được nước ấy liền sống lại, lại sinh thân thể. Chịu khổ như vậy đủ ba năm.
Sau đó mệnh chung, lại sinh trong bảy Tộc ở bên trong Diêm Phù Đề, thường chịu nhiều khổ não.
Ấy là: Bạch Lại chủng tộc, Bổ Yết Sa chủng tộc, Đát Lại La, Đát Lý Ca chủng tộc, Xoa Phộc chủng tộc, Khôi Quái chủng tộc, Sinh Manh chủng tộc. Chịu ác báo này đủ sáu mươi năm.
Sau đó lại sinh vào tộc hạ tiện nghèo túng, thân chẳng đầy đủ, trí tuệ kém thiếu, chẳng theo Giáo Hối, xa Phật Pháp Tăng, tất cả người đời nhìn thấy đều ghét bỏ, luôn thường đói khát, lại nhiều tật bệnh.
Bấy giờ, Đế Thích Thiên Chủ nghe Đức Phật Thế Tôn nói các việc khổ của Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử này xong thì rất ư kinh sợ, rồi lại mê muộn, nói lời như vậy: Không có người cứu! Thế Tôn! Như chẳng thương cứu thì ai là người cứu được?
Đức Thế Tôn bảo rằng: Đế Thích Thiên Chủ! Chỉ có Đà La Ni tên là Phật Đỉnh Phóng Vô Cấu Quang Minh Nhập Phổ Môn Quát Sát Nhất Thiết Như Lai Tâm mới có thể cứu được. Vô Thường rất lớn, Nghiệp ấy khó cầu miễn được. Tuy nhiên cầu cũng được miễn, Mỗi mỗi Hữu Tình ấy vào thời sau, phần sau, khi mệnh chung thời đạt được an vui.
Nếu sau khi mệnh chung, bị rơi vào tất cả cõi địa ngục, súc sanh … ắt được giải thoát. Nếu thường nhớ niệm sẽ được lìa hẳn tất cả chướng nạn, lại được sống lâu, viên mãn Nguyện lành. Lại nữa được thấy tự tính thanh tịnh.
Lúc đó Đế Thích Thiên Chủ, bốn vị đại thiên Vương, Phạm Vương, Na La Diên Thiên với hàng Đại Tự Tại chắp tay cung kính bạch Thế Tôn rằng: Thế Tôn! Nguyện vì chúng con mà làm tăng ích ủng hộ Chư Thiên.
Thế Tôn! Nếu có Pháp Vương dùng sức tam muội cứu tế tất cả người dân trong thế gian cho đến địa ngục, nẻo ác thảy đều giải thoát.
Thế Tôn! Như Đao Lợi Thiên Cung quán sát tất cả chúng sinh trong Thế Giới ở bốn Châu.
Thế Tôn! Đức Như Lai có Đại Trí Tuệ! Nguyện vì Thế Gian vòng khắp mười phương cùng với chúng con, ban dùng Pháp Ấn làm đại ủng hộ.
Khi ấy, Đức Thế Tôn Nhận sự ân cần cầu thỉnh lần nữa của Chư Thiên ấy, liền nhập vào Tam Ma Địa tên là Chu Biến Tướng Quán Sát. Lúc vào Tam Ma Địa thời ở trong đỉnh kế phóng ánh sáng Biến Tướng chiếu diệu vòng khắp mười phương Thế Giới rồi quay lại trụ ở hư không như cái lọng báu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhìn kỹ Đế Thích rồi bảo rằng: Đế Thích Thiên Chủ! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta có Pháp Ấn tên là Phật Đỉnh Phóng Vô Cấu Quang Minh Nhập Phổ Môn Quán Sát Nhất Thiết Như Lai Tâm Đà La Ni là điều mà chín mươi chín trăm ngàn câu chi na do đa căng già sa Như Lai đồng tuyên nói.
Đà La Ni này. Nếu có chúng sinh được nghe thấy mà tùy vui thì hết thảy tất cả tôi nghiệp trong ba đời đáng bị đọa vào địa ngục, nẻo ác cho đến súc sanh… thảy đều phá diệt, giải thoát sợ hãi.
Tất cả tội chướng đều được tiêu trừ như lửa lớn kia thiêu đốt cỏ khô, gió thổi tro tàn tan diệt trong phút chốc. Lại như Trời giáng mưa lớn, nước ấy chảy gấp gội rửa tất cả uế ác của núi, sông, cỏ cây làm cho trong sạch. Lại như vàng ròng được trui luyện từ lửa nên mau được mềm dẻo, mới làm thành các vật.
Nếu có người trì tụng Đà La Ni này không có nghi hoặc sẽ tự thấy ba nghiệp của thân mình được trong sạch giống như mặt trời xuất hiện thì ánh sáng chiếu khắp. Lại như cá bị mất nước lại có nước trở lại, y theo nước mà lại nhận khoái lạc.
Nếu lại tất cả chúng sinh trong thế gian thường hay tụng niệm Đà La Ni này thì nơi thọ mệnh được tăng ích gấp bội.
Này Thiên Đế Chủ! Hãy lắng nghe! Hãy chân thật thọ nhận!
Liền nói Đà La Ni là:
1. Nẵng mạc.
2. Tát lý phộc.
3. Đát tha nga đá nam.
4. Ma hạ tức đá ma nê.
5. Nhập phộc la nẵng.
6. Sa nga la.
7. Nghiễm tỳ la.
8. Yết lý sái dã.
9. A kiến xá dã.
10. A kiến xá dã.
11. A dục đà la.
12. A dục đà la.
13. Tán đà la.
14. Tát đà la.
15. Cật số noa.
16. Cật số noa.
17. Cật sử nê.
18. Cật sử nê.
19. Tát lý phộc.
20. Đát tha nga đá.
21. Tam ma dã.
22. Để sắt xá.
23. Để sắt xá.
24. Nỗ lý nga để.
25. Ma hạ bộ phộc nẵng.
26. Sa nga lý.
27. Tăng Du Già dã hàm.
28. Bà nga phộc đế.
29. Tát lý phộc bá ba.
30. Vĩ ma lệ.
31. Nhạ dã, nhạ dã.
32. Lãm vĩ.
33. Tát bố tra.
34. Tát bố tra.
35. Tát bố tra dã.
36. Tát bố tra dã.
37. Vĩ nga đá phộc la nê.
38. Bà dã hạ lý.
39. Hạ la, hạ la.
40. Hồ, hồng, hồng.
41. Một lý để dụ.
42. Nan noa đà lý.
43. A bà dã bát la nễ.
44. Ổ sắt nê sái.
45. Vĩ lộ cát đế.
46. Tam mãn đá mô khế.
47. Tam mãn đá vĩ dã phộc lộ cát đế.
48. Ma hạ ma dã đà lý.
49. Ma hạ bá xả đà lý.
50. A mục khư bá thế.
51. A mục khư vĩ ma lệ.
52. A ca lý sái dã.
53. A ca lý sái dã.
54. A lỗ cung xá dã.
55. A lỗ cung xá dã.
56. Bà la, bà la.
57. Tam bà la, tam bà la.
58. Vĩ bộ sử đá bộ nhĩ.
59. Ma hạ mẫu nại la.
60. Vĩ lộ cát đế.
61. Nhạ dã, nhạ dã.
62. Tất đệ.
63. Mạo đà nễ, mạo đà nễ.
64. Tam mạo đà nễ.
65. Tam mạo đà nễ.
66. Du đà nễ.
67. Du đà nễ.
68. Tăng du đà nễ.
69. Tăng du đà nễ.
70. Tát lý phộc.
71. Đát tha nga đá.
72. Câu la bộ nhĩ.
73. Tam ma dã nễ sắt kế.
74. Bát la noa xả dã đổ.
75. Bá băng.
76. Du sái dã.
77. Bá băng.
78. Bát la sa la nỗ.
79. Bôn nê diễn.
80. Vĩ nẵng thiết diễn đổ.
81. Bá băng.
82. Tát lý phộc.
83. Chỉ lý vĩ vĩ sái hạ lệ.
84. Ma nê vĩ truật đệ.
85. Du đà dã.
86. Vĩ ma lễ.
87. Vĩ ca tất đá.
88. Bát nạp nhĩ.
89. Ca phộc lý đá.
90. Bộ nhĩ.
91. Sắt tra bả la nhĩ đá.
92. Ba lý bố la nê.
93. Án.
94. Tát lý phộc.
95. Đát tha nga đổ.
96. Sắt nê sái.
97. Vĩ lộ cát đế.
98. Sa phộc hạ.
99. Án.
100. Tát lý phộc.
101. Đát tha nga đá.
102. Ngọc hứ dã.
103. Địa sắt xá nẵng.
104. Địa sắt xỉ đế.
105. Sa phộc hạ.
106. Án.
107. A dụ lý na nễ.
108. Sa phộc hạ.
109. Án.
110. Bôn nê dã na nễ.
111. Sa phộc hạ.
112. Án.
113. A dụ sắt mãn đà la nê.
114. Sa phộc hạ.
115. Án.
116. Tăng hạ la nê.
117. Sa phộc hạ.
118. Án.
119. Bôn nê dã.
120. Vĩ lộ cát đế.
121. Sa phộc.
122. Hạ.
123. Án.
124. Một lý để dụ nan nê.
125. Sa phộc hạ.
126. Án.
127. Diệm ma noản nê.
128. Sa phộc hạ.
129. Án.
130. Diệm ma nỗ đế.
131. Sa phộc hạ.
132. Án.
133. Diệm ma la cật xoa tế duệ.
134. Sa phộc hạ.
135. Án.
136. Tam bà la nê.
137. Sa phộc hạ.
138. Án.
139. Thiêm bà la nê.
140. Sa phộc hạ.
141. Án.
142. Tán đà la nê.
143. Sa phộc hạ.
144. Án.
145. Bát la để sa la nê.
146. Sa phộc hạ.
147. Án.
148. Đế nhĩ phộc đế.
149. Sa phộc hạ.
150. Án.
151. Nhạ dã phộc để.
152. Sa phộc hạ.
153. Án.
154. Tát lý phộc.
155. Đát tha nga đá.
156. Mẫu nại la.
157. Địa sắt xá nẵng.
158. Địa sắt xỉ đế.
159. Sa phộc hạ.
NAMAḤ SARVA TATHĀGATĀNĀṂ MAHĀ CITTA MAṆI JVALANA SĀGARA GAṂBHĪRA ĀKARṢĀYA AKAṆṬHAYA AKAṆṬHAYA, ĀYURDHARA ĀYUR DHARA, SAṂDHARA SAṂDHARA, KṢAṆA KṢAṆA, KSIṆI KṢIṆI SARVA TATHĀGATA SAMAYA TIṢṬA TIṢṬA, DURGATI MAHĀBHUVANA SĀGARĪ SAṂŚODHAYA MĀṂ BHAGAVATE SARVA PĀPA VIMALE, JAYA JAYA LAMBHĪ, SPHUṬA SPHUṬA, SPHOṬAYA SPHOṬAYA, VIGATĀVARAṆI BHAYA HARĪ, HARA HARA, HŪṂ HŪṂ.
HŪṂ, MṚTYU DAṆḌA DHARĪ, ABHAYA PRADĪ, UṢṆĪṢA VILOKITE SAMANTA MUKHĪ, SAMANTA VYAVALOKITE, MAHĀ MĀYĀ DHARĪ, MAHĀ PĀŚA DHARĪ, AMOGHA PĀŚE, AMOGHA VIMALE, ĀKARṢĀYA.
ĀKARṢĀYA, ARGHODAYA ARGHODAYA, BHARA BHARA, SAMBHĀRA SAMBHĀRA, VI BHŪṢITA BHUJE MAHĀ MUDRĀVILOKITE, JAYA JAYA.
SIDDHE, BODHANI BODHANI, SAṂBODHANI SAṂBODHANI, ŚODHANI ŚODHANI, SAṂ ŚODHANI SAṂ ŚODHANI.
SARVA TATHĀGATA KULA BHUJE SAMAYA NIṢKE PRAṆAŚYATU PĀPAṂ, ŚOSAYATU PĀPAṂ, PRASARAṆO PUṆYAṂ, VI NĀŚAYANTU PĀPAṂ.
SARVA KILVI VISAHARE, MAṆI VIŚUDDHE ŚODHAYA VIMALE VI.
KASITA PADME KAVALITA BHUJE, ṢAṬ PĀRAMITĀ PARI PŪRAṆĪ.
OṂ SARVA TATHĀGATOṢṆĪṢA VILOKITE SVĀHĀ.
OṂ SARVA TATHĀGATĀ GUHYA ADHIṢṬANA ADHIṢṬITE SVĀHĀ.
OṂ ĀYUR DADE SVĀHĀ.
OṂ PUṆYA DADE SVĀHĀ.
OṂ AYUṢMAT DHARAṆI SVĀHĀ.
OṂ SAṂ HARAṆI SVĀHĀ.
OṂ PUṆYA VILOKITE SVĀHĀ.
OṂ MṚTYU DAṆḌE SVÀHÀ.
OṂ YAMA DAṆḌE SVĀHĀ.
OṂ SAṂ BHARAṆI SVĀHĀ.
OṂ ŚAMVARAṆI SVĀHĀ.
OṂ SAṂ DHĀRAṆI SVĀHĀ.
OṂ PRATI SARAṆI SVĀHĀ.
OṂ TEJOVATI SVĀHĀ.
OṂ JAYAVATI SVĀHĀ.
OṂ SARVA TATHĀGATA MUDRA ADHIṢṬANA ADHIṢṬITE.
SVĀHĀ.
Này Thiên Chủ! Nay Ta tuyên nói Đà La Ni này để cứu tế Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử ấy khiến cho đêm dài được lợi ích an vui.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đế Thích Thiên Chủ rằng: Nếu lại có người hay viết chép Phật Đỉnh Phóng Quang Vô Cấu Quang Minh Nhập Phổ Môn Quán Sát Nhất Thiết Như Lai Tâm Đà La Ni làm Tháp an trí hoặc tu sửa Tháp cũ an trí.
Lại đem hương bột, hương xoa bôi làm mọi kỹ nhac để cúng cường. Lại thêm khiết tịnh thân tâm nơi sáu thời trong một ngày đêm niệm tụng Đà La Ni này, lại nhiễu quanh một trăm lẻ tám vòng thì hay diệt tất cả nghiệp ác, hay sinh tất cả mầm giống lành.
Này Thiên Chủ! Nếu muốn an trí Tâm Minh này, đến lúc mặt trời mới mọc, ngồi hướng mặt về phương Đông dùng các bùn thơm xoa tô Mạn Noa La Maṇḍala: Đàn Trường, hướng mặt về mặt trời rải mọi thứ hoa, đốt hương Trầm Thủy, đốt hương Lỗ.
Sắt Ca… Quy mệnh đỉnh lễ tất cả Như Lai một trăm lẻ tám lần, viết Tâm Minh này đặt ở trong Tháp giống như đem Xá Lợi toàn thân của mỗi một Như Lai trong chín mươi chín trăm ngàn câu chi na dữu đa căng già sa đẳng Như Lai đặt ở trong Tháp, không có khác. Lại liền viết Phật Đỉnh Vô Cấu Phổ Môn Tam Thế Như Lai Tâm Đà La Ni để ở trong Tháp.
Đà La Ni là:
Án đát lại địa phệ tát lý phộc đát tha nga đá hột lý na dã nga La Tỳ nhập phộc la đạt lý ma đà đổ Nga La Tỳ tăng hạ la A dụ tăng du đà dã bá ba tát lý phộc đát tha nga đá tam mãn đổ ở sắt nê sái vĩ ma la vĩ truật đệ sa phộc hạ.
OṂ TRYADHVE SARVA TATHĀGATA HṚDAYA GARBHE, JVALA DHARMA DHĀTU GARBHE, SAṂHĀRA ĀYUḤ SAṂ ŚODHAYA PĀPA, SARVA TATHĀGATA UṢṆĪṢA VIMALA VIŚUDDHE SVĀHĀ.
Thiên Chủ! Nếu có ai đối với Tháp Phật Đỉnh Vô Cấu Phổ Môn Tam Thế Như Lai Tâm Đà La Ni mà sinh tâm cung kính thì hết thảy nghiệp đoản mệnh của đời quá khứ sẽ được tiêu trừ, lại tăng thọ mệnh, được Chư Thiên hộ trì.
Khi người này chết, buông bỏ thân này thời giống như con rắn lột da liền được sinh về Thế Giới An Lạc, chẳng bị đọa vào cõi địa ngục, súc sanh, Diêm Ma. Cho đến chẳng bị rơi vào tất cả nẻo ác, cũng chẳng nghe tên của địa ngục, được quả báo như vậy, được điều chưa từng có.
Khi ấy, Đế Thích Thiên Chủ nhận Minh này nơi Đức Thế Tôn xong, vì Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử nên vào lúc ấy về trong cung của mình. Trước hết y theo Nghi Quỹ do Đức Như Lai nói, y theo Pháp làm cái Tháp như pháp tướng ấy, đốt hương lễ bái, một lòng niệm tụng cầu xin tiêu nghiệp.
Ngay lúc làm thời hết thảy quả báo khổ não, tất cả tội nghiệp của Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử thảy đều tiêu trừ. Lại nữa đạt được thân thù thắng giống như vàng ròng. Lại nữa đạt được tất cả Như Lai hiện trong không trung ở ngay trước mặt.
Các Như Lai ấy xưng rằng: Lành thay! Khi Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử được thanh tịnh nghiệp, tiêu trừ tội chướng.
Lại thấy tự tính sinh mừng vui lớn, liền nói Tụng rằng:
Như Lai khó luận bàn
Sức Minh cũng khó tính
Chính pháp cũng như thế
Đạt được thấy quả báo
Lại nói kệ rằng:
Đỉnh lễ quy mệnh chân thật tế
Thích Ca Mâu Ni Đại Đạo Sư
Vốn hành thương xót cứu chúng sinh
Tùy Nguyện ngang bằng báu Như Ý.
Bấy giờ, Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử nói Kệ này xong thì quay về cung điện của mình cùng với các quyến thuộc, chúng Thiên Tử, Thiên Nữ mỗi mỗi đều cầm hoa của Cõi Trời, vòng hoa, mọi thứ hương của Cõi Trời, hương bột, hương xoa bôi cho đến áo của Cõi Trời trang nghiêm thù diệu… và Thiên Đế Thích cũng lại nghiêm trang cầm các hương hoa của Cõi Trời, vật cúng dường màu nhiệm lại đến cung Đổ Sử Đa, nơi Đức Thế Tôn ngự.
Đến chỗ Phật xong làm cúng dường lớn. Lại đem mọi thứ sự nghiệp của Cõi Trời để làm cúng dường. Lại nữa, nhiễu quanh nhiều trăm ngàn vòng, bày cúng dường xong, ngồi trước mặt Đức Thế Tôn, vui muốn nghe pháp.
Khi ấy, nhóm bốn vị đại thiên Vương, Phạm Vương, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Kim Cương Thủ Đại Dược Xoa Chủ ở trong Hội hướng trước mặt Đức Thế Tôn, chắp tay cung kính bạch Thế Tôn rằng: Thế Tôn! Đời trước, Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử này đã tạo nghiệp gì mà phải bị quả báo cực ác, chịu khổ não lớn, lo buồn vô lượng như vậy?
Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử thích hỏi nghĩa này.
Ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông tuyên nói.
Này Kim Cương Thủ! Đời quá khứ, Nam Ấn Độ ấy có một cái thành tên là Quảng Viên Mãn, có vị Bà La Môn tên là Vô Cấu trụ tại thành đó làm thầy nói Pháp Thuyết Pháp Sư.
Vị ấy có tính thức thông mẫn, khéo hay phân biệt tướng của các pháp, sắc mạo đoan nghiêm, hình tướng đầy đủ uy nghi khiến người nhìn thấy đều vui vẻ, vì người Thiện Tín nói Tâm Minh này, rộng vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, đối với Minh Vương này thường luôn suy tư, chân thật xét đoán quán sát.
Lúc đó, lại có vị trưởng giả tên là Quang Minh cũng trụ trong thành đó, giàu có vô lượng, được đại tự tại, các Bà La Môn đều tùy thuận theo. Lại nữa một thời Bà La Môn Vô Cấu vì người giải nói Tâm Minh Vương Đà La Ni này.
Khi ấy trưởng giả Quang Minh sinh tâm chẳng vui, tác suy tư như vậy: Ta xem Bà La Môn này như con cá, như con rùa… sẽ cắt lát thành từng miếng mỏng rồi đem phân dơ bỏ vào trong miệng.
Thời trưởng giả ấy tác suy tư đó, hưng tâm ác xong thì liền bị quả báo mặc bệnh bạch lại cùi hủi, chịu đau buốt nhiều rất ư khổ não cho đến lúc chết. Khi chết rồi bị sinh vào trong đại địa ngục Vô Gián, trụ một kiếp chịu khổ não lớn.
Ra khỏi địa ngục xong thì sinh làm rùa, cá … cũng trải qua một kiếp chịu quả báo đau khổ.
Sau đó chết xong lại sinh vào địa ngục Đại hắc thằng cũng trải qua một kiếp chịu khổ não lớn.
Sau khi ra khỏi ngục đó, lại quay về thành cũ, sinh trong giòng người mù, mới sinh ra đã không có con mắt. Do duyên đời trước nên được nghe có vị Bật Sô trụ ở ngôi Chùa nọ, sinh tâm tin trọng nên đích thân tìm kiếm.
Vị bật sô ấy thường hành bi mẫn, khi thấy người đó đến thì dùng tâm từ nhiếp thủ, liền cho thức ăn ngon, sau đó lại cùng giải nói Tâm Minh Đà La Ni này. Đã được nghe xong thì xét đoán, chân thật suy tư nên ở đời này được Túc Mệnh Thông, liền hay suy tư nơi chốn đã đến.
Lại nữa, suy tư nghiệp lực quá lớn nên hối hận vô lượng. Tác niệm đó xong từc liền chết ngay, nương theo sức uy đức của Đà La Ni mà sinh về Cõi Trời Đao Lợi, ở trong cung điện màu nhiệm cùng với các Thiên Nữ quyến thuộc thọ đại khoái lạc. Do nghiệp còn sót đã chín mùi nên hiện tiền phải chịu sự đau khổ này.
Kim Cương Thủ! Vị trưởng giả sinh nghi, hủy báng lúc đó tức là Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử vậy.
Này Kim Cương Thủ Ma Ni Tạng Vô Cấu Thiên Tử ấy đã chịu các khổ báo như vậy, sau lại tu nghiệp lành, quy mệnh Tam Bảo, dần chứng quả lành cho đến ngày sau sẽ được bồ đề của Phật.
Kim Cương Thủ! Bà La Môn Vô Cấu lúc đó, sau này là vị Bật Sô lại cùng giải nói Đà La Ni này với người mù kia tức là Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử vậy.
Bấy giờ, Chư Thiên với hàng đại chúng nghe nói việc quá khứ xong thì khen rằng: Hiếm có thay! Thật lạ kỳ! Thật đặc biệt! vui vẻ vô lượng bèn phát tiếng lớn, liền nói Tụng là:
Chẳng thể luận bàn sức đại minh
Giải thoát tam đồ liền cầu được
Giống báu như ý mà bình đẳng
Đây thật Như Lai Chân Tam Muội.
Khi ấy trong chúng Hội có chín mươi hai ngàn Thiên Tử được bất thoái chuyển, trăm ngàn câu chi Thiên Nữ biến tướng người nữ thành nam tử cũng lại được trụ bất thoái chuyển.
Lúc đó, Kim Cương Thủ Đại Dược Xoa Chủ bạch Phật rằng: Thế Tôn! Rất khó luận bàn mà hay khen ngợi Đại Minh Vương Đà La Ni này. Nguyện xin Đức Thế Tôn tuyên nói Nghi Quỹ thành tựu khiến cho chúng sinh ở thời phận sau này đắc được lợi ích an vui, chẳng bị đọa vào cõi địa ngục, súc sanh, Diệm Ma La.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thương cảm lời cầu thỉnh ấy xong thì bảo Kim Cương Thủ Đại Dược Xoa Chủ rằng: Lắng nghe! Hãy lắng nghe! Nay Ta vì ông tuyên nói Nghi Quỹ thành tựu của Đà La Ni này.
Vào thời sau, phận sau này. Nếu có Tộc Tính Nam, Tộc Tính Nữ, Bật Sô, Bật Sô Ni, Ổ Bá Tác Câu, Ổ Bá Tư Ca niệm tụng Minh Vương này một biến thì giống như nhiễu quanh hai mươi tháp Toàn Thân của Như Lai.
Lại nếu niệm tụng hai Như Ý Bảo này một biến thì đồng với việc gieo trồng căn lành nơi mười căng già sa đẳng trăm ngàn câu chi na dư đa Như Lai, được phước báo lớn, thảy đều diệt hết năm nghiệp vô gián, cho đến tất cả tội chướng trong cõi địa ngục, súc sanh, Diệm Ma La đều được giải thoát, dứt mệnh nơi cõi này giống như rắn lột da tức liền sinh về Thế Giới An Lạc.
Chẳng nhận bào thai, tự nhiên hóa sinh ở trong hoa sen, sinh ra nơi nào đều được túc mệnh trí. Lại nữa luôn thường gần gũi cúng dường tất cả Như Lai, thảy đều đầy đủ tất cả mong cầu.
Nếu người ấy y theo pháp, tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, làm Mạn Noa La vuông vức bốn phương, dùng vỏ cây hoa tốt viết chép Tâm Minh này. Lại làm năm cái Tháp để ở bốn góc với trung tâm của Đàn, an trí Tâm Minh ở trong năm cái Tháp. Lại ở chính giữa an trí Tướng Luân, cột sợi dây màu đỏ ở trên vách của Tướng Luân để làm Tiêu Xí.
Trên Đàn để bốn cái Hiền Bình, bốn lò hương, thiêu đốt bốn loại hương là: Hoắc Hương, Trầm Hương, Chiên Đàn với An Tức. Rải các danh hoa, bột hương. Để vật khí At Già nhiễu quanh Mạn Noa La, niệm tụng hai Như Ý Bảo này một trăm lẻ tám biến.
Nếu người bị rắn cắn hoặc bị tật bệnh ràng nhiễm sắp dứt thọ mệnh hoặc bị chết yểu, đến nơi binh qua sợ hãi cho đến cầu con cái… thì nên ở trước Mạn Noa La để năm lọai cành cây rừng, dùng cành cây ấy phủi phất trên thân, nơi Mạn Noa La phát tâm hiền lành chân thật làm các cúng dường.
Nếu có thể mỗi mỗi y theo Nghi Quỹ này thì hết thảy tội nghiệp chướng đã gom chứa nơi trăm ngàn kiếp trước khó được giải thoát, tất cả phiền não, tất cả tật bệnh, tất cả sợ hãi … thảy đều xa lìa cho đến tất cả nghiệp ác ở cõi địa ngục, súc sanh, Diêm Ma La cũng được giải thoát, cho đến tất cả tội chướng, độc hại, khổ não của thế gian cũng đều phá diệt được.
Nếu có chuyên chú niệm tụng thì người đoản thọ sẽ được trường thọ.
Nếu có người bị nhọt lở loét ngoài da đã lâu, bệnh rất lâu rồi mà chẳng khỏi … liền được khỏi bệnh, thân căn viên mãn trong sạch vi diệu. Y mong cầu việc gì thảy đều đạt được cho đến mệnh chung trước mặt chẳng thất tất cả khổ não, sau khi mệnh chung thì giống như rắn lột da sinh về Thế Giới An Lạc. Nơi sinh ra đều do hoa sen hóa sinh, các điều thọ dụng thảy đều thù diệu, được túc mệnh thông.
Nếu y theo Nghi Quỹ, ngày ngày ba thời niệm tụng hai mươi mốt biến cho đến tụng đủ một năm sẽ đắc được Phổ Môn Quán Sát Quang Minh Tam Ma Địa, được thấy tất cả Như Lai trong tất cả Cõi Phật ở mười phương. Lại được thân Vô Cấu rực lửa thanh tịnh rất trong sạch, được tâm thanh tịnh đồng với việc gieo căn lành nơi căng già sa đẳng trăm ngàn câu chi na dư đa Phật.
Qua chốn luân hồi, trở ngược thường ở nơi thanh tịnh. Ưng có Cõi Phật để cầu về thì đều đến đó. Muốn sinh về Thế Giới An Lạc thì ứng niệm liền sinh. Tướng chết, khổ não đều chẳng hiện ở trước mặt cho đến trong mộng cũng lại chẳng thấy.
Nếu vào ngày mồng tám, ngày 14, ngày 15 nhiễu quanh Tháp toàn thân của Như Lai, tụng hai Đại Như Ý Bảo Đà La Ni này tám trăm biến.
Ngay lúc tụng thời trong Tháp có tiếng nói an ủi Hành Nhân mà xưng: Lành thay! Hết thảy tất cả tội chướng với các phiền não trong đời hiện tại của người ấy cho đến cấu uế tham, sân, si, vô minh… thảy đều tiêu trừ, đắc được thân Vô Cấu rất trong sạch.
Nếu lại nam tử, nữ nhân, đồng nam, đồng nữ nghe tiếng niệm tụng thì hết thảy tội chướng đều được giải thoát.
Nếu tiếng niệm tụng vang đến các loài súc sanh cùng với loài phi cầm, loài có bốn chân, loài có hai chân, loài có nhiều chân, loài không có chân, mọi loài trùng kiến, loài hàm thức… thì tất cả nghiệp đạo thảy đều giải thoát.
Nếu ở nơi mồ mả, khai quật hài cốt này, chú vào đất cát ấy hai mươi mốt biến rồi rải tán ở trên cốt thì thần thức của kẻ ấy tùy theo phương xứ đã bị đọa vào địa ngục thảy đều giải thoát, sinh về Cõi Trời Thiện Thệ, Thân của Thiên Nhân ấy tuôn mưa hoa lạ xuống mồ mả đó.
Nếu lại Hành Nhân ở tại nơi mồ mả, sườn núi niệm tụng thời hết thảy loài chim bay, loài thú chạy, mọi loài du hành đến đó đều được giải thoát thân nghiệp báo, sinh về Cõi Trời Thiện Thệ.
Nếu niệm tụng Phật Đỉnh Vô Cấu Phổ Môn Tam Thế Như Lai Tâm Đà La Ni tám ngàn biến thì lửa chẳng thể thiêu đốt. Nghiệp ác đã làm cho đến năm nghiệp Vô gián liền được giải thoát.
Nếu tụng một trăm ngàn biến, khi mệnh chung bị Diêm Ma Sứ dùng dây cột cổ dắt vào cõi Diêm Ma La thì tất cả địa ngục trong cõi ấy đều bị phá hoại, trở ngược sinh sợ hãi nên tìm lệnh khiến cho quay về mà được giải thoát, nghĩa là Hành Nhân ấy là Sứ Giả của Pháp Vương trụ đạo Tĩnh Lự không có nghi hoặc, muốn sinh về Thế Giới An Lạc thì tùy nguyện vãng sinh.
Nếu tụng một trăm ngàn biến sẽ được thân màu vàng ròng, tướng mạo viên mãn, Như Lai ba đời xem như con một.
Nếu viết chép một trăm ngàn bản, làm một trăm ngàn cái Tháp… như pháp trang nghiêm rực rỡ thì quyết định được bất thoái chuyển, an trụ Thập Địa giống như gieo trồng căn lành nơi chín mươi chín trăm ngàn câu chi na dư đa căng già sa đẳng Như Lai ấy đắc được Thọ Ký.
Liền nói Tụng là: Trong một Tháp ấy an Tâm Minh.
Dựng lập Luân Đường bày Tiêu Xí Đồng tạng toàn thân Phật ba đời.
Đủ trăm ngàn Tháp, đây nên biết.
Nếu lại đối với tất cả tháp xưa cũ ấy mà gia công tu sửa sẽ được bất thoái chuyển, ngày sau chứng được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, lợi ích cho người Trời cho đến loài nhuyễn động, giải thoát nẻo ác được bất thoái chuyển, công đức vô lượng chẳng thể xưng tán.
Bấy giờ, Kim Cương Thủ Đại Dược Xoa Chủ, bốn vị Đại Vương Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Thiên Tử cư trú tại cung Đổ Sử Đa cho đến Đế Thích với Đao Lợi Thiên Tử Ma Ni Tạng Vô Cấu… thảy đều một lòng nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, lui lại trụ trước mặt Đức Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: Thế Tôn! Như Ý Bảo Đà La Ni này rất khó luận bàn, rất ư hiếm có, khó thấy khó nghe.
Thế Tôn! Chúng con đồng lòng ở đời sau thời nếu có chúng sinh luôn thường thọ trì Như Ý Bảo này khiến cho trụ lâu ở đời, vì chúng sinh phân biệt giải nói thì chúng con dùng tâm thành thật âm thầm kín đáo ủng hộ giống như con đỏ.
Đức Phật bảo: Lành thay! Lành thay các ông! Như vậy! Nay ta đem Như Ý Bảo. Minh Vương này giao cho các ông, các ông hãy khéo hộ trì.
Đức Phật nói Kinh đó xong thời các Đại Bồ Tát với các Thiên Chúng thảy đều vui vẻ làm lễ rồi lui ra.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba