Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Ba - Quán Tướng - Tập Chín
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
QUÁN PHẬT TAM MUỘI HẢI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẨM BA
QUÁN TƯỚNG
TẬP CHÍN
Bấy giờ, các mạch lại chảy rót vào nhau, giống như chỉ có các dòng nước. Chỗ nào nước đến thì lửa tắt theo. Lúc đó, hành giả nơi từng đốt từng đốt xương, nước phun ra như người ngước cổ phun bắn lên. Nước lên đến Cõi Phạm, từng luồng nước tiếp nhau lên đến Cõi Phạm Thiên.
Hành giả thấy nước trong thân mình như bốn biển lớn, thấy các trùng, đầu héo rũ, tay gẫy, chân cong queo. Chỉ có tim hành giả sinh ra lửa phân làm mười phần. Lửa vào các dòng nước chẳng tiêu diệt nhau. Ánh sáng nước xông lên, ánh sáng lửa sáng theo.
Hai ánh sáng nước lửa đều từ tim phát ra, xen lẫn nhau lên đến tột đỉnh ba cõi, xuống đến ngục A Tỳ. Hết tận cõi một Thế Giới chỉ toàn thấy nước, lửa tuôn chảy, Đông, Tây, Nam, Bắc lửa cũng chạy theo. Bấy giờ, đầu trái tim tự nhiên mọc một sợi lông đen. Ở đầu sợi lông ấy phát ra một luồng gió đen lớn. Gió ấy có bốn màu trái tim nổi lên như cơn gió lốc xoáy, có hình dạng như khói lửa.
Ngọn gió ấy thổi khắp tất cả các dòng nước. Nước ấy dậy sóng, bọt tụ thành đống, lửa cũng nhập vào trong đó. Nhờ sức lửa nên bọt cứng như băng. Rồi lại có gió đến, thổi các bụi bẩn, chín mươi tám thứ vật xấu xí, bất tịnh đem đặt lên trên băng.
Sức băng yếu nên tan theo vật bất tịnh, chỗ đặt vật liền tan ra. Khi băng này tan thì có tám người cầm dao chặt khối băng thành từng khúc rồi mang đi. Bụi đất lấm bẩn, lòng buồn rầu mà nằm. Gió, lửa, nước… tụ hợp một chỗ. Sức lửa lớn nên thiêu đốt hủy hoại mọi vật. Có bốn con rắn độc ngậm một viên ngọc báu, từ nơi lửa cháy vút lên hư không bay đi.
Có sáu con Rồng lớn đón bốn con li nhỏ một loại Rồng nhỏ không có sừng đớp lấy mà chạy. Đỉnh đầu Rồng mọc lên một cây cao đến Cõi Vô Sắc. Có một cây cỏ nhỏ, nhỏ như sợi lông bay lên, có màu sắc chính là màu vàng, từ lõi cây mọc xuống rễ cây, rồi từ rễ cây mọc lên vào thân cây, từ thân cây mọc tứ tán vào cành lá.
Hoa cây ấy màu trắng, cũng có hoa màu hồng, đỏ. Trái của cây ấy sắp chín thì thành bốn màu. Đến nửa tháng tám thì thuần một màu vàng ròng. Nếu ánh sáng này chiếu soi các Thanh Văn thì biến hóa thành vô lượng trăm ngàn cảnh giới. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Nếu có các Tỳ Kheo khi nhập vào định này mà thân như cây chuối không có bền chắc thì khi ra khỏi định, chi tiết thân thể đau đớn tê liệt. Nếu họ chẳng uống thuốc thì phát điên mà chết. Vậy nên phải kịp thời dùng một thứ thuốc để tiêu diệt. Người quán tưởng như vậy thì tiêu trừ được tội sinh tử của vô số kiếp. Như dòng nước lớn, chẳng bao lâu họ sẽ đắc đạo A La Hán.
Đức Phật bảo A Nan: Ông hãy thọ trì lời nói chân thật của Phật chớ quên! Rồi ông phải tuyên nói rộng rãi cho các Tỳ Kheo.
Khi Đức Phật nói lời nói đó thì năm trăm vị Tỳ Kheo được bốn đại định, đồng thời đều được bốn quả Sa Môn.
Sao gọi là quán tưởng tướng chữ Vạn giữa ngực của Như Lai?
Ngọc ma ni dưới nách luôn phóng ra ánh sáng. Trong ánh sáng hồng tía ấy có hoa vàng. Hoa ấy nở ra hóa thành vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số các bông hoa. Trên mỗi bông hoa, có vô lượng Đức Phật. Những vị Hóa Phật đó đều có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng lại có một Hóa Phật.
Ánh sáng ấy có năm màu. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng này thì người điên được tỉnh, người tán loạn được định tĩnh, người bệnh được thuyên giảm, người nghèo cùng tự nhiên được châu báu, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, người câm có thể nói, người gù, thọt, ghẻ lở, cùi hủi đều được tiêu trừ hết.
Ánh sáng ấy nhập vào khắp trên đỉnh đầu của Chư Phật mười phương. Ánh sáng nhập vào rồi, trong ngực các Đức Phật có trăm ngàn ánh sáng từ chữ Vạn sinh ra. Trong mỗi ánh sáng vang lên hàng trăm ngàn bài kệ diễn nói về Đàn Na Ba la mật… những ánh sáng như vậy diễn nói sáu pháp Ba la mật. Kệ ấy nhiều không lường. Hành giả ngồi ngay thẳng nghe vô lượng Đức Phật nói về pháp đó.
Mỗi Hóa Phật sai một hóa nhân đoan nghiêm vi diệu giống như Đức Di Lặc đến an ủi hành giả nói rằng: Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Ông giữ tâm chánh niệm nên thấy ánh sáng của các Đức Phật.
Trong ánh sáng Chư Phật nói lên pháp thí vô tướng, nói lên giới vô tướng, nói lên nhẫn vô tướng, nói lên tinh tấn vô tướng, nói lên định vô tướng, nói lên tuệ vô tướng. Ngươi nghe pháp này hãy thận trọng chớ kinh sợ. Các Đức Phật quá khứ giữ chánh niệm tư duy cũng nghe pháp đó, cũng hiểu tướng đó. Hiểu được tướng đó rồi thì chẳng sợ sinh tử.
Dù ở địa ngục lớn A Tỳ đầy lửa dữ cũng chẳng thể đốt cháy. Tuy ở địa ngục mà như dạo chơi ở Thiên cung. Vậy nên chữ Vạn gọi là Ấn thật tướng. Các Đức Phật Như Lai, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp học được ấn này, nhờ được ấn này nên chẳng sợ sinh tử, chẳng nhiễm năm dục.
Đức Phật bảo A Nan: Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người thấy ánh sáng nơi tướng ngực của Phật thì tiêu trừ được tội sinh tử của mười hai vạn ức kiếp. Nếu người chẳng thể thấy tướng ngực rõ ràng thì vào tháp mà quán tưởng tướng đó. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng tướng cánh tay tròn nhỏ như vòi voi chúa của Như Lai?
Mười ngón tay hợp lại căng bàn tay ra thành bánh xe có hàng ngàn nan hoa mà mỗi hoa đều phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng chia làm hàng ngàn tia, toàn là màu hồng. Mỗi ánh sáng như vậy soi khắp vô lượng Thế Giới ở mười phương. Chiếu soi Thế Giới rồi ánh sáng hóa thành nước vàng.
Trong nước vàng, có một loại nước vi diệu như màu thủy tinh, ngạ quỷ nhìn thấy thì tiêu trừ được nóng nảy, trở nên mát mẻ, súc sanh nhìn thấy thì tự biết được mạng sống đời trước, voi điên nhìn nước ấy thấy thành Vua Sư Tử. Sư Tử nhìn thấy là chim cánh vàng, các Rồng nhìn thấy là Vua chim cánh vàng. Các súc sanh đó đều thấy sự tôn trọng nên lòng phát sinh sợ sệt, chắp tay cung kính. Do cung kính nên sau khi qua đời được sinh lên Cõi Trời.
Mọi người nhìn thấy nước thủy tinh đó như Vua Phạm Thiên, hoặc như Mặt Trời, Mặt Trăng, sao… thấy rồi hoan hỷ nên sau khi qua đời được sinh lên Cõi Trời Đâu Suất. Hành giả thấy điều đó, mắt tâm được khai mở, thấy Hóa Phật đầy trong các cõi khắp mười phương.
Tay của mỗi một Hóa Phật phát ra ánh sáng nhập vào mắt hành giả nên dù nhắm mắt hay mở mắt đều luôn thấy các Đức Phật. Hành giả tự quan sát thân tướng mình như trong bình báu vi diệu có sự bất tịnh. Như vậy người thấy tuy chưa được thông suốt nhưng đã đến khắp mười phương, hầu hạ các Đức Phật, thấy tay của mỗi Đức Phật cũng phóng ra ánh sáng như vậy. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng tướng rốn của Như Lai?
Trong rốn của Như Lai có hàng vạn ức hoa báu. Mỗi hoa báu có hàng vạn ức na do tha cánh. Mỗi cánh hoa có hàng vạn ức na dotha màu. Mỗi màu có hàng vạn ức na do tha ánh sáng. Khi tướng này hiện, tất cả đại chúng thấy tướng tim của Phật.
Tim của Như Lai như đóa hoa sen hồng, màu vàng ròng ánh lên khiến cho ánh sáng vàng tía xen lẫn nhau như ống lưu ly treo ở trước ngực Đức Phật. Hành giả thấy bên trong thân Phật có hàng vạn ức vị Hóa Phật. Các vị Hóa Phật đó ở vùng tim Phật.
Rốn của mỗi vị Phật phát ra ánh sáng kéo tới sáng rỡ như núi Tu Di. Xen giữa các núi có vô lượng núi báu như núi Tu Di. Trên mỗi hoa này có vị hóa Phật nghiêm trang cao lớn như núi Tu Di. Một ngàn loại ánh sáng với mười ngàn màu chia làm mười ức ức tia.
Ức ức tia soi xuống phương Dưới, ức ức tia soi lên phương Trên, ức ức tia soi phương Đông, ức ức tia soi phương Nam, ức ức tia soi phương Tây, ức ức tia soi phương Bắc, ức ức tia soi phương Đông Nam, ức ức tia soi phương Tây Nam, ức ức tia soi phương Tây Bắc, ức ức tia soi phương Đông Bắc.
Như vậy mười phương đều có các hoa. Hoa nhỏ nhất giống như trăm ức núi Tu Di lớn. Trên mỗi núi Tu Di có trăm ức vạn các vị Đại Bồ Tát. Thân nhỏ nhất của các vị Bồ Tát ấy như núi Tu Di. Trong rốn của các vị hóa Bồ Tát đều mọc ra một hoa sen lớn. Các hoa sen ấy che khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Mỗi đóa hoa có ánh sáng màu vàng.
Ánh sáng ấy giống như vàng Diêm Phù Đàn. Mỗi ánh sáng vàng hóa ra Phật Thích Ca Mâu Ni nhiều như bụi trần. Trong rốn mỗi một vị Phật Thích Ca cũng phát ra ánh sáng như vậy. Các ánh sáng như vậy hợp thành đài ánh sáng. Mọi đài ánh sáng ấy cũng đều có vô lượng vị đại Hóa Phật nhiều như bụi trần như cát sông Hằng.
Từng Đức Phật, từng Đức Phật tiếp nhau phóng ra ánh sáng nơi rốn. Ánh sáng ấy rất mạnh mẽ chiếu thẳng lên vô lượng Thế Giới ở phương trên và qua khỏi những Thế Giới đó. Những Thế Giới như vậy nhiều như vô lượng bụi trần của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới.
Trong những Thế Giới đó đều có lưu ly, pha lê… hàng ức loại châu báu dùng làm hang động của Phật. Trong mọi hang động đó đều có hàng vạn ức vô số các Đức Phật. Trong rốn các Đức Phật, mỗi mỗi đều mọc ra hoa sen lớn, giống như trước không khác.
Ánh sáng đó chiếu soi tất cả những Bồ Tát trụ ở Địa thứ mười. Những Bồ Tát đó gặp ánh sáng ấy rồi liền nhập vào pháp môn Thủ Lăng Nghiêm vi diệu, lại được nhập vào định Kim cang thí. Chư Thiên gặp ánh sáng ấy thì phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, mắt tâm được khai mở, thấy tướng các Đức Phật.
Ánh sáng này chiếu soi Bồ Tát, khiến cho các lỗ chân lông của thân những Bồ Tát, trong mỗi lỗ chân lông tạo ra hàng A tăng kỳ đám mây cúng dường và các phẩm vật cúng dường. Lọng che nhỏ nhất cũng che cả cõi Diêm Phù Đề… như vậy mọi phẩm vật cúng dường, các loại châu báu nhiều chẳng thể nói hết. Những vật cúng dường này từ biển Thủ Lăng Nghiêm sinh ra.
Đức Phật bảo A Nan: Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ khi tư duy như vậy mà nhớ tưởng hay mơ thấy việc này thì đời đời sinh ra luôn luôn gặp được Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù. Những vị Pháp Vương Tử đó sẽ vì hành giả, ở trong mộng luôn nói pháp của Chư Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, nói Tam Muội Thủ Lăng Nghiêm, Tam Muội Ban chu, cũng nói Tam Muội quán Phật… dùng làm chuỗi ngọc trang sức.
Tỉnh dậy rồi, hành giả ghi nhớ giữ gìn không để quên mất. Công đức ở đời hiện tại của người này là được Thiên Nữ cung cấp cúng dường, tiêu trừ được tội sinh tử của mười vạn ức kiếp. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Ức ức ánh sáng chiếu xuống phương Dưới khiến cho đất của phương Dưới như màu nước của cõi Diêm Phù Đề. Trong nước có các lầu báu nhiều như cát sông Hằng. Bên dưới mỗi lầu báu có một ngôi thành báu như thành Càn Thát Bà. Bên trên lầu báu có cây báu lớn.
Lá cành của cây ấy, tất cả đều nổi lửa. Lửa ấy cháy rực, trên dưới đều thiêu đốt. Lửa đốt các loại nước làm nước hóa thành lưu ly. Trên đất lưu ly lại mọc lên các cây. Mỗi cây có bốn con rồng. Trên đỉnh đầu Rồng ấy có ngọc Như ý. Ánh sáng ngọc ấy soi khắp thân Rồng khiến cho Rồng và cây toàn một màu vàng ròng. Khi Rồng ấy chồm lên thì những lỗ chân lông của Rồng phát ra ánh sáng màu vàng.
Ánh sáng ấy soi thẳng xuống vô lượng Thế Giới ở phương Dưới. Qua khỏi phương Dưới lại soi vô lượng Thế Giới khiến cho đất của phương Dưới đều trở thành màu vàng. Trên đất màu vàng có hoa kim cương. Trên hoa kim cương có Thiên Nữ vàng. Mỗi Thiên Nữ vàng có trăm ngàn Thiên Nữ quyến thuộc. Các Thiên Nữ đó đều khen ngợi biển Tam Muội từ tâm.
Ra khỏi phương Dưới, lên thẳng đến thành Ca Tỳ La ở phương trên. Tiếng khen ấy như tiếng sấm khen ngợi lòng Từ. Khi nói lời nói đó, đầu lông của các Rồng phát ra các mây báu. Trong mỗi đám mây có các Cõi Phật nhiều như cát sông Hằng. Trong mỗi Cõi Phật có những vị Hóa Phật nhiều như bụi trần. Mỗi vị Hóa Phật phóng ra ánh sáng này.
Khi ánh sáng này hiện, Thế Giới ở phương dưới có trăm vạn núi vàng. Ở vùng núi cao ấy có trăm ức hang động báu như mây cuồn cuộn. Trong mọi hang động đó có toàn các Đức Phật trắng. Có chúng Bồ Tát và Thanh Văn màu trắng trang nghiêm làm thị giả.
Ánh sáng vàng ròng ở bên trái, bên phải Đức Phật giống như xẻ núi, các châu báu chiếu sáng lẫn nhau. Có lọng báu vi diệu lớn như núi Tu Di, do vô lượng châu báu tạo thành. Mỗi châu báu có hàng trăm ức ánh sáng xoay vần uyển chuyển. Trong mỗi ánh sáng đều có trăm ức tòa Sư Tử.
Trên mỗi tòa Sư Tử có trăm ức na do tha đại chúng Bồ Tát ngồi kiết già. Trong lỗ chân lông của thân các Bồ Tát đó có A tăng kỳ ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có một vị Hóa Phật, thân vị Phật ấy viên mãn như núi Tu Di. Các vị Hóa Phật đó dùng trăm ngàn bài kệ khen ngợi sự không giết hại, tâm từ là căn bản.
Từ chính là vị thuốc hay tiêu trừ hoạn nạn sinh tử. từ là con mắt thanh tịnh dẫn đường cho các Trời, người. Các vị Hóa Phật đó khen ngợi lòng từ rồi đều biến hóa làm thành núi lưu ly. Bên trong núi ấy có hàng trăm ức Bồ Tát.
Mỗi vị Bồ Tát có hàng vạn Phạm Vương làm thị giả, đi đến trước hành giả, ở trong núi báu, đồng thanh nói lên pháp này, bảo rằng: Này thiện nam! Đối với biển Niệm Phật nên tu lòng từ! Các Đức Phật Bồ Tát do tu lòng từ nên được đại từ của Phật. Nay ông nên phải tu giới không sát sinh, thực hành đại từ bi.
Bấy giờ, cũng có tám bộ chúng Trời, Rồng…, tất cả chúng sinh gặp ánh sáng này, nghe lời nói đó nên sau khi qua đời chắc chắn đều sẽ sinh về cõi Phạm Thế.
Đức Phật bảo A Nan: Ông giữ gìn lời nói này cẩn thận chớ quên mất! Ông bảo các Tỳ Kheo khiến cho họ tu hành pháp này.
Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu nghe lời dạy này, tư duy pháp này thì người có chánh niệm, có chánh thọ, tam muội chẳng dao động, tâm chẳng biếng nhác thoái lui, phát tâm đại thừa thì phải biết rằng, người đó luôn ở trong mộng nhìn thấy ánh sáng này và cùng nghe hóa Phật nói pháp từ tâm. Tỉnh dậy rồi, hành giả ghi nhớ, hiểu sâu nghĩa lý, tư duy nghĩa ấy thì liền được định về tâm từ.
Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người nào tư duy pháp này, giữ gìn pháp này thì phải biết rằng, người đó, tâm họ thanh tịnh như tâm của các Đức Phật, tiêu trừ được tội sinh tử của ức kiếp, thường sinh vào Cõi Phạm Thế, gặp gỡ các Đức Phật, thỉnh Phật vận chuyển bánh xe pháp. Nghe pháp rồi, họ phát tâm bồ đề và vào đời vị lai nhất định thành Phật Đạo.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông, cho đến vô lượng Thế Giới ở phương Đông, khiến cho đất của phương Đông trắng như núi Tuyết. Trên mỗi ngọn núi đều có mây báu trắng. Mây trắng báu ấy giống như đài báu, có hàng vạn ức lưới báu, chuông báu. Vùng lưới báu chuông báu ấy có một ức ánh sáng trắng.
Những ánh sáng trắng đó hóa thành đài vàng. Trên mỗi đài vàng có bốn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có bốn ức Bồ Tát làm thị giả. Vị Phật cùng với các vị Bồ Tát đều giảng nói pháp từ, khen ngợi sự chẳng giết hại bằng hàng ngàn ức bài kệ. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hữu Học Lậu Tận
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Chúng Tập
Phật Thuyết Kinh ưu điền Vương
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm đẳng Thú Tứ đế
Phật Thuyết Kinh ánh Sáng Hoàng Kim - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Diệu Tràng Tán Dương
Phật Thuyết Kinh Tứ Thập Nhị Chương - Chương Ba Mươi Tám - Có Sanh Tất Có Diệt
Phật Thuyết Kinh Vô Thượng Y - Phẩm Một - Phẩm Sự Suy Lường Công đức