Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Mười Tám - Phẩm Tàm Quý - Phần Hai

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn  

PHẨM MƯỜI TÁM

PHẨM TÀM QUÝ  

PHẦN HAI  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở thành La Duyệt, vườn trúc Ca Lan Đà cùng với chúng năm trăm đại Tỳ Kheo. Bấy giờ Vua A Xà Thế có con voi tên Na La Kỳ Lê, vô cùng hung tàn bạo ngược, mạnh mẽ hay trừ dẹp oán thù. Nhờ sức voi đó, khiến cho không đâu không nép phục một nước Ma Kiệt.

Bấy giờ Ðề Bà Đạt Đa liền đến chỗ Vua A Xà Thế, nói: Ðại Vương nên biết!

Nay con voi này tàn ác, có thể hàng phục các kẻ thù. Hãy đem rượu mạnh cho voi uống say, sáng sớm Sa Môn Cù Đàm ắt sẽ vào thành khất thực, hãy thả voi say này cho chà đạp chết đi.

Vua A Xà Thế nghe Ðề Bà Đạt Đa dạy liền ra lệnh trong nước: Sáng sớm mai sẽ thả voi say, cấm nhân dân đi lại trong làng xóm.

Lúc này Ðề Bà Đạt Đa nói với Vua A Xà Thế: Nếu Sa Môn Cù Đàm kia có nhất thiết trí biết việc tương lai thì ngày mai ắt không vào thành khất thực.

Vua A Xà Thế nói: Ðúng như lời Ngài dạy. Nếu người có nhất thiết trí, sáng sớm mai sẽ không vào thành khất thực. Bấy giờ nam nữ, già trẻ trong thành La Duyệt kính thờ Phật, nghe Vua A Xà Thế sáng sớm mai sẽ thả voi say hại Như Lai.

Nghe xong ai cũng lo buồn, liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn: Sáng sớm mai xin Thế Tôn chớ có vào thành.

Vì sao thế?

Vì nay Vua A Xà Thế có ban lệnh bắt nhân dân trong thành ngày mai chớ qua lại ở làng xóm, ta muốn thả voi say hại Sa Môn Cù Đàm. Nếu Sa Môn có nhất thiết trí, sáng sớm mai sẽ không vào thành khất thực. Cúi mong Thế Tôn chớ có vào thành. Nếu Như Lai bị hại, người đời sẽ mất con mắt, không còn được cứu hộ.

Thế Tôn bảo: Thôi! Thôi!

Các Ưu Bà Tắc chớ có sầu não.

Vì sao thế?

Thân của Như Lai chẳng phải là thân thế tục, nên chẳng bị người khác làm hại. Hoàn toàn không có việc này. Các Ưu Bà Tắc nên biết, đất Diêm Phù Đề Ðông Tây rộng bảy ngàn do tuần, Nam Bắc dài hai mươi mốt ngang do tuần.

Đất Cù Da Ni bề ngang rộng tám ngàn do tuần hình như nửa Mặt Trăng. Đất Phất vu đệ bề ngang rộng chín ngàn do tuần. Đất đai vuông vức. Đất Uất Đan Việt bề ngang rộng mười ngàn do tuần, đất đai tròn như Mặt Trăng đầy.

Ngay dù trong bốn thiên hạ này đầy voi say giống như lúa mè, lùm rừng, số như thế vẫn chẳng thể làm động một mảy lông của Như Lai, huống là hại được Như Lai. Hoàn toàn không có việc này.

Ngoài bốn thiên hạ ra, lại có cả ngàn thiên hạ, ngàn Trời Trăng, ngàn núi Tu Di, ngàn nước bốn biển, ngàn Diêm Phù Đề, ngàn Cù Da Ni, ngàn Phất vu đệ, ngàn Uất Đan Việt, ngàn Tứ Thiên Vương, ngàn Trời Ba Mươi Ba, ngàn Trời Ðâu Suất, ngàn Trời Diệm Thiên, ngàn Trời Hóa Tự Tại, ngàn Trời Tha Hóa Tự Tại, đây gọi là ngàn Thế Giới.

Cho đến hai ngàn Thế Giới, đây gọi là Trung Thiên Thế Giới. Cho đến ba ngàn Thế Giới, đây gọi Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới.

Trong đó Long Vương Y La Bát đầy dẫy vẫn không thể làm động một mảy lông của Như Lai, huống là con voi này lại muốn hại Như Lai được sao?

Hoàn toàn không có việc này.

Vì sao thế?

Thần lực của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai ra đời, trọn chẳng bị người làm tổn hại. Các ông nên trở về chỗ của mình. Như Lai sẽ tự biết đối phó việc này.

Bấy giờ Thế Tôn rộng thuyết pháp vi diệu cho bốn bộ chúng, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nghe thuyết chánh pháp xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng lên lễ Phật mà lui đi.

Sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát muốn vào thành La Duyệt khất thực.

Khi ấy, Thiên Vương Ðề Đầu Lại Tra cùng Càn Thát Bà v.v... Từ phương Ðông đến theo hầu Thế Tôn. Tỳ Lưu Lặc Vương cùng chúng Cưu Bàn Trà theo hầu Thế Tôn.

Phương Tây có Tỳ Lưu Ba Xoa cùng các chúng rồng theo hầu Như Lai. Phương Bắc Thiên Vương Câu Tỳ La cùng chúng quỷ La Sát theo hầu Như Lai.

Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân đem vài ngàn vạn chúng Thiên Nhân, biến mất từ Trời Ðâu Suất hiện đến chỗ Thế Tôn, rồi Trời Phạm Thiên Vương cùng vài ngàn vạn chúng Phạm Thiên từ Cõi Trời Phạm Thiên đến chỗ Thế Tôn.

Thích, Phạm, Tứ Thiên Vương và hai mươi tám Trời, đại Quỷ Thần Vương, mọi người bảo nhau: Hôm nay chúng ta sẽ xem hai thần voi và rồng đấu với nhau, ai sẽ thắng, bại. Bốn bộ chúng trong thành La Duyệt từ xa thấy Thế Tôn cùng chư Tỳ Kheo vào thành khất thực. Nhân dân trong thành đều cất tiếng hô hoán.

Vua A Xà Thế nghe tiếng này, hỏi tả hữu: Ðây là tiếng vang của những gì mà lọt vào đây?

Thị Thần đáp: Ðây là Như Lai vào thành khất thực, dân chúng trông thấy nên có tiếng này.

A Xà Thế nói: Sa Môn Cù Đàm không có Thánh Đạo, chẳng biết tâm người mà đến thử đối phó.

Vua A Xà Thế liền sai tượng sư: Ông mau cho voi uống rượu mạnh, mũi đeo gươm bén thả cho nó chạy. Bấy giờ Thế Tôn cùng các Tỳ Kheo đến cửa thành, vừa nhấc chân vào cửa thì Trời Đất chuyển động. Các bậc Trời Thần ở trên hư không tung các loại hoa.

Năm trăm Tỳ Kheo thấy voi say đến, đều vùng chạy không biết đi đâu. Voi hung dữ kia thấy Như Lai ở xa liền xông tới.

Thị Giả A Nan thấy voi say đến, ở sau lưng Thế Tôn chẳng yên, bạch Thế Tôn: Voi này bạo ác, sợ sẽ hại mình, phải nên tránh xa nó.

Thế Tôn bảo: Chớ sợ, A Nan!

Nay ta sẽ dùng cánh tay thần của Như Lai để hàng phục voi này. Như Lai quan sát con voi hung bạo, khi cách nó không gần cũng chẳng xa, Ngài liền hóa ra các Sư Tử Vương ở hai bên, sau lưng voi hóa thành một hầm lửa lớn. Voi hung bạo kia thấy Sư Tử Vương ở hai bên và thấy hầm lửa liền vãi phân tiểu không chỗ phóng chạy bèn sấn đến trước Thế Tôn.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Mi chớ có hại rồng,

Rồng hiện rất khó gặp,

Do không có hại rồng,

Mà được sanh chỗ thiện.

Voi hung bạo nghe Thế Tôn nói kệ này, như bị lửa đốt, tự cởi kiếm hướng về Như Lai quỳ hai gối, phục xuống đất lấy vòi liếm chân như Lai.

Thế Tôn duỗi tay phải xoa đầu voi, nói:

Sân giận sanh địa ngục,

Cũng làm thân rắn rít,

Thế nên hãy bỏ sân,

Chớ thọ lại thân này.

Bấy giờ các bậc Trời Thần ở trong Hư Không dùng trăm ngàn loại hoa tung trên Như Lai. Thế Tôn bèn thuyết pháp vi diệu cho bốn bộ chúng, Trời, Rồng, Quỷ, Thần.

Bấy giờ hơn sáu vạn nam nữ thấy voi bị hàng phục, liền hết sạch trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Tám vạn thiên nhân cũng được pháp nhãn thanh tịnh. Rồi trong thân voi say kia, gió đao nổi lên, thân hoại mạng chung, sanh lên Cung Trời Tứ Thiên Vương.

Bấy giờ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di và Trời, Rồng, Quỷ, Thần nghe Thế Tôn dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Tôn Giả Nan Đà, đắp y thật đẹp, màu sắc chói mắt, mang giày viền vàng, lại vẽ hai mắt, tay ôm bình bát định vào thành Xá Vệ.

Khi ấy rất đông chúng Tỳ Kheo từ xa trông thấy Tôn Giả Nan Đà, khoát y cực đẹp vào thành Xá Vệ khất thực, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên.

Phút chốc, ngồi lui lại mà bạch Thế Tôn: Vừa rồi Tỳ Kheo Nan Đà đắp y cực đẹp, màu sắc chói mắt, vào thành Xá Vệ khất thực.

Khi ấy Thế Tôn bảo một Tỳ Kheo: Thầy mau đến chỗ Tỳ Kheo Nan Đà, nói rằng Như Lai gọi thầy.

Xin vâng, Thế Tôn.

Tỳ Kheo ấy nhận lời Thế Tôn dạy, cúi lạy rồi đi, đến chỗ Tỳ Kheo Nan Đà, nói với Nan Đà: Thế Tôn gọi thầy.

Nan Đà nghe Tỳ Kheo nói, liền đến chỗ Thế Tôn, đến xong cúi lạy và ngồi một bên.

Thế Tôn bảo Nan Đà: Nay thầy vì sao đắp y cực đẹp, lại mang giày viền vàng vào thành Xá Vệ khất thực?

Tôn Giả Nan Đà làm thinh chẳng đáp.

Thế Tôn lại nói nữa: Thế nào Nan Đà?

Thầy há chẳng do niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo sao?

Nan Đà đáp: Ðúng vậy, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo: Này thầy là con nhà vọng tộc, chẳng hành đúng luật, do lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo, vì sao lại mặc áo cực đẹp, tô sửa hình vóc, muốn vào thành Xá Vệ khất thực, cùng bọn bạch y kia đâu có khác gì?

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Ngày nào thấy Nan Đà,

Hay trì hạnh tịch tĩnh,

Tâm vui pháp Sa Môn,

Ðầu đà đến bờ kia.

Nan Đà, nay thầy chớ tạo hạnh như vậy. Bấy giờ, Tôn Giả Nan Đà và bốn bộ chúng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy: Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Tôn Giả Nan Đà chẳng kham hành phạm hạnh, muốn cởi pháp y, tập hạnh bạch y. Khi ấy nhiều chúng Tỳ Kheo đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên.

Các Tỳ Kheo bạch Thế Tôn: Tỳ Kheo Nan Đà chẳng kham hành phạm hạnh, muốn cởi pháp phục, tập hạnh tại gia.

Thế Tôn bảo một Tỳ Kheo: Thầy đến chỗ Nan Đà bảo là Như Lai gọi thầy.

Xin vâng, Thế Tôn!

Tỳ Kheo ấy vâng lời Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy Thế Tôn rồi lui, đi đến chỗ Tỳ Kheo Nan Đà, nói: Thế Tôn gọi Nan Đà.

Vâng.

Bấy giờ Tỳ Kheo Nan Đà theo Tỳ Kheo này đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên.

Thế Tôn bảo Nan Đà.

Thế nào Nan Đà?

Thầy chẳng ưa tu phạm hạnh, muốn cởi pháp y, tập hạnh bạch y chăng?

Nan Đà đáp: Thưa vâng, Thế Tôn.

Thế Tôn nói: Vì sao thế, Nan Đà?

Nan Đà đáp: Vì con lòng dục lừng lẫy, kềm chẳng được.

Thế Tôn nói: Thế nào Nan Đà?

Thầy không phải là con nhà vọng tộc xuất gia học đạo sao?

Nan Đà đáp: Ðúng vậy, Thế Tôn!

Con là dòng dõi vọng tộc, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo.

Thế Tôn bảo: Nếu thầy dòng dõi vọng tộc thì chẳng nên như thế.

Vì bỏ nhà học đạo, tu hạnh thanh tịnh, tại sao lại bỏ chánh pháp muốn tập ô uế?

Nan Đà nên biết, có hai pháp không nhàm chán. Nếu có người học tập hai pháp này, trọn không nhàm chán.

Thế nào là hai pháp?

Nghĩa là dâm dục và uống rượu. Ðó là hai pháp này, trọn không nhàm chán. Do quả của hạnh này cũng không thể được chỗ vô vi. Thế nên, Nan Đà, hãy nghĩ nhớ bỏ hai pháp này, sau ắt sẽ thành quả báo vô lậu.

Nan Đà! Nay thầy khéo tu phạm hạnh, hướng về đạo quả đều do đó cả.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Lợp nhà không kín,

Trời mưa sẽ dột,

Người chẳng chịu hành,

Lọt dâm, nộ, si.

Lợp nhà khéo kín,

Trời mưa chẳng dột,

Người hay chuyên hành,

Không dâm, nộ, si.

Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: Gã vọng tộc này ý dục rất nhiều. Nay ta phải nên dùng lửa trừ lửa. Khi ấy Thế Tôn, liền lấy cánh tay thần lực nắm Nan Đà, ví như người có sức vừa co duỗi cánh tay đem Nan Đà lên núi Hương Sơn. Bấy giờ trên núi có một hang đá, lại có một con khỉ mù đang ở đó.

Thế Tôn tay phải nắm Nan Đà bảo: Nan Đà! Thầy có thấy con khỉ mù này chăng?

Vâng, Thế Tôn!

Thế Tôn nói: Cái nào đẹp?

Tôn Đà Lợi họ Thích đẹp hay con khỉ mù này đẹp?

Nan Đà đáp: Ví như có người đánh dập lỗ mũi con chó xấu xí, lại còn bôi thêm độc vào nó, khiến càng xấu hơn. Ðây cũng như thế, cô gái họ Thích Tôn Đà Lợi, nay đem so với con khỉ mù này, không thể ví dụ. Ví như đống lửa lớn đốt cháy núi rừng còn bỏ thêm củi khô, lửa càng hừng hực. Ðây cũng thế, con nhớ cô gái họ Thích kia không lìa tâm.

Bấy giờ Thế Tôn như trong khoảng co duỗi cánh tay từ núi kia biến mất, liền đến Cõi Trời Ba Mươi Ba. Lúc ấy Chư Thiên Cõi Trời Ba Mươi Ba đều tụ tập ở giảng đường thiện pháp.

Cách giảng đường thiện pháp chẳng xa, lại có cung điện, năm trăm ngọc nữ vui đùa với nhau, toàn là con gái chẳng có con trai.

Bấy giờ Nan Đà Xa thấy năm trăm Thiên Nữ ca hát kỹ nhạc vui đùa với nhau, thấy rồi hỏi Thế Tôn: Ðây là chỗ nào mà có năm trăm Thiên Nữ hát xướng kỹ nhạc, vui đùa với nhau?

Thế Tôn bảo: Nan Đà! Thầy tự đi hỏi đi!

Tôn Giả Nan Đà liền đến chỗ năm trăm Thiên Nữ, thấy cung điện nhà cửa kia trải tọa cụ tốt đẹp hàng trăm thứ, toàn là con gái không có con trai.

Tôn Giả Nan Đà liền hỏi Thiên Nữ: Các Người là Thiên Nữ thế nào mà vui chơi khoái lạc với nhau như thế?

Thiên Nữ đáp: Chúng tôi có năm trăm người đều thanh tịnh không có phu chủ chồng. Chúng tôi nghe có đệ tử Thế Tôn tên là Nan Đà là con của di mẫu Đức Phật. Ngài đang ở chỗ Như Lai thanh tịnh tu phạm hạnh. Sau khi mạng chung sẽ sanh ở đây làm phu chủ của chúng tôi, cùng vui thú với nhau.

Tôn Giả Nan Đà lòng rất vui mừng, kềm chẳng được, liền nghĩ: Nay ta là đệ tử Thế Tôn, lại cũng là con Di Mẫu. Các Thiên Nữ này đều sẽ là vợ ta. Lúc ấy Nan Đà liền trở lui đến chỗ Thế Tôn.

Thế Tôn nói: Thế nào Nan Đà, ngọc nữ kia nói thế nào?

Nan Đà đáp: Ngọc nữ kia mỗi người nói: Mỗi người chúng tôi đều không chồng. Nghe có đệ tử Thế Tôn khéo tu phạm hạnh, sau khi mạng chung sẽ sanh đến đây.

Thế Tôn bảo: Nan Đà! Ý thầy thế nào?

Nan Đà đáp: Bấy giờ con tự nghĩ: Ta là đệ tử Thế Tôn, lại là con di mẫu của Phật. Các Thiên Nữ này đều sẽ là vợ ta.

Thế Tôn bảo: Thích thay, Nan Đà! Hãy khéo tu phạm hạnh, ta sẽ tác chứng cho thầy, khiến năm trăm nữ nhân đều cấp cho thầy.

Thế Tôn lại nói: Thế nào Nan Đà?

Cô gái họ Thích Tôn Đà Lợi đẹp hay năm trăm Thiên Nữ này đẹp?

Nan Đà đáp: Ví như con khỉ mù trên núi trước Tôn Đà Lợi, không có tươi nhuận cũng không có sắc. Ðây cũng như thế, Tôn Đà Lợi trước Thiên Nữ kia cũng vậy, không có sáng tươi.

Thế Tôn bảo: Thầy khéo tu phạm hạnh, ta sẽ chứng cho thầy được năm trăm Thiên Nhân này.

Bấy giờ Thế Tôn liền nghĩ: Nay ta sẽ dùng lửa diệt lửa của Nan Đà. Ví như người có sức trong khoảng co duỗi cánh tay, Thế Tôn tay phải cầm cánh tay Nan Đà đưa đến địa ngục. Bấy giờ chúng sanh trong địa ngục chịu biết bao khổ não. Lúc ấy, trong địa ngục kia có một vạc lớn trống rỗng, chẳng có người.

Thấy rồi, Nan Đà liền sanh sợ hãi, lông áo dựng đứng, đến trước Thế Tôn, bạch: Ở đây các chúng sanh đều chịu đau khổ, chỉ riêng có vạc này bỏ trống không người.

Thế Tôn nói: Ðây gọi là địa ngục A tỳ.

Bấy giờ Nan Đà càng thêm khủng khiếp, lông áo dựng đứng, bạch Thế Tôn: Ðây là địa ngục A tỳ mà sao có ngục trống, không có tội nhân?

Thế Tôn nói: Nan Đà!

Thầy hãy tự đến hỏi đi.

Tôn Giả Nan Đà liền tự đi hỏi: Thế nào ngục tốt, đây là ngục gì mà trống, không có người?

Ngục tốt đáp: Tỳ Kheo nên biết!

Ðệ tử Đức Phật Thích Ca tên là Nan Đà. Ông ta ở chỗ Như Lai, tịnh tu phạm hạnh, thân hoại mạng chung sanh cõi lành, trên Trời. Ở đó vị ấy sống lâu ngàn tuổi, khoái lạc vui thú, rồi lại ở đó chết, sanh vào địa ngục A tỳ này. Cái vạc không này vì thế để trống.

Tôn Giả Nan Đà nghe lời này xong, lòng hoảng sợ, lông áo dựng đứng, liền nghĩ: Cái vạc trống này chính là dành cho ta.

Tôn Giả Nan Đà vội đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, bạch Thế Tôn: Mong cho con được sám hối lỗi chính con, do chẳng tu phạm hạnh, xúc nhiễu Thế Tôn.

Bấy giờ Tôn Giả Nan Đà liền nói kệ:

Ðời người không đủ quý,

Trời hết thọ cũng mất,

Ðịa ngục khổ chua cay,

Chỉ có Niết Bàn vui.

Thế Tôn bảo Nan Đà: Lành thay! Lành thay! Như lời Thầy nói. Niết Bàn rất là tịnh lạc.

Nan Đà! Ta nhận cho thầy sám hối, thầy ngu, thầy si, tự biết lỗi. Nay Như Lai nhận lời hối lỗi của thầy, sau chớ phạm nữa. Bấy giờ Thế Tôn trong khoảng co duỗi cánh tay, tay nắm Nan Đà từ địa ngục biến mất, đến thành Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Nan Đà: Nan Đà, nay thầy nên tu hai pháp.

Thế nào là hai pháp?

Ðó là chỉ và quán. Lại nên tu thêm hai pháp.

Thế nào là hai pháp?

Là sanh tử chẳng đáng ưa, biết Niết Bàn là vui. Ðó là hai pháp. Lại nên tu thêm hai pháp, đó là trí và biện. Bấy giờ Thế Tôn đem những pháp này thuyết cho Nan Đà. Tôn Giả Nan Đà nhận lời Thế Tôn dạy xong, từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy Phật rồi lui đi.

Ðến vườn An Đà, Tôn Giả ngồi kiết già dưới một gốc cây, chánh thân chánh ý buộc niệm ở trước, suy nghĩ lời dạy này của Như Lai. Tôn Giả ở chỗ nhàn tĩnh, hằng suy nghĩ lời dạy của Như Lai, không rời một phút chốc.

Do đó vị Vọng tộc này do lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo, tu phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, lại không còn thọ thân sau, như thật mà biết.

Lúc ấy Tôn Giả Nan Đà liền thành A La Hán. Ðã thành A La Hán rồi, Tôn Giả liền từ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi một bên.

Tôn Giả Nan Đà bạch Thế Tôn: Thế Tôn trước hứa sẽ chứng cho đệ tử năm trăm Thiên Nữ, nay con xin bỏ hết.

Thế Tôn bảo: Nay thầy sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập. ta sẽ bỏ lời hứa.

Thế Tôn liền nói kệ:

Nay ta thấy Nan Đà,

Tu hành pháp Sa Môn

Các ác đều đã dứt,

Ðầu đà không có mất.

Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Người đắc A La Hán, nay là Tỳ Kheo Nan Đà. Không dâm, nộ, si cũng là Tỳ Kheo Nan Đà. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Thích Si Sấu, Ca Tỳ La Vệ, trong vườn Ni Câu Lưu cùng chúng năm trăm đại Tỳ Kheo.

Bấy giờ Ðại Ái Ðạo Cù Đàm Di, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi bạch Thế Tôn: Mong Thế Tôn hằng giữ gìn mạng sống để giáo hóa lâu dài cho bọn ngu tối.

Thế Tôn bảo: Cù Đàm Di, chớ nên nói lời này với Như Lai. Thọ mạng của Như Lai vô cùng, ta hằng giữ gìn mạng này.

Bấy giờ Ðại Ái Ðạo Cù Đàm di liền nói kệ:

Thế nào lễ tối thắng,

Thế gian không ai bằng?

Dứt được tất cả nghi,

Cho nên nói lời này.

Thế Tôn lại dùng kệ đáp:

Tinh tấn ý khó thiếu,

Hằng có tâm dũng mãnh,

Bình đẳng nhìn Thanh Văn,

Ðây tức lễ Như Lai.

Bà Ðại Ái Ðạo bạch Thế Tôn: Từ nay về sau con sẽ lễ Như Lai. Nay Như Lai dạy lễ tất cả chúng sanh không có ý thêm, bớt. Trên Trời, loài người, và A Tu La, Như Lai là tối thượng. Thế Tôn hứa khả lời bà Ðại Ái Ðạo nói, bà liền từ chỗ ngồi đứng lên, lễ Phật rồi lui đi.

Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Ðệ tử hiểu rộng biết nhiều bậc nhất trong hàng Thanh Văn của ta là Ðại Ái Ðạo. Các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ nâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai hạng người này ở trong chúng Như Lai mà lại khởi lên sự phỉ báng.

Thế nào là hai người?

Là pháp sai nói là pháp đúng, nói pháp đúng là pháp sai. Ðó là hai người phỉ báng Như Lai. Lại có hai người không phỉ báng Như Lai.

Thế nào là hai?

Nghĩa là pháp sai phi pháp nói là pháp sai, pháp đúng chân pháp nói là pháp đúng. Ðó là hai người không phỉ báng Như Lai. Thế nên, các Tỳ Kheo, pháp sai hãy nói là pháp sai, pháp đúng hãy nói là pháp đúng.

Như thế, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai hạng người gặt hái được phước vô lượng.

Thế nào là hai?

Với người đáng khen ngợi thì khen ngợi, người không đáng khen ngợi thì không khen ngợi. Ðó là hai người được phước vô lượng. Lại có hai người chịu tội vô lượng.

Thế nào là hai?

Nghĩa là người đáng khen ngợi lại phỉ báng, người không đáng khen ngợi mà lại khen ngợi.

Các Tỳ Kheo, chớ học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường