Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Du Hành - Phần Bảy
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẬT THUYẾT
KINH TRƯỜNG A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
KINH DU HÀNH
PHẦN BẢY
Phật bảo A Nan: Này A Nan, pháp hữu vi này là vô thường, biến dịch, chung quy hao mòn, hoại diệt. Tham dục không chán. Mạng người tiêu tán. Mê say ân ái không hề biết đủ. Chỉ người nào chứng đắc Thánh trí, thấy rõ đạo lý, mới biết đủ mà thôi.
Này A Nan, ta nhớ đã từng ở nơi này, ta sáu lần tái sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương và cuối cùng bỏ xác tại chỗ này.
Nay ta thành Vô Thượng Chánh Giác, lại cũng muốn xả bỏ tánh mạng, gởi thân tại đây. Từ nay về sau, ta đã dứt tuyệt sanh tử, không còn có chỗ nào là nơi bỏ xác ta nữa. Đây là kiếp cuối cùng. Ta không còn thọ sinh trở lại nữa.
Bấy giờ, Thế Tôn tại thành Câu Thi Na Kiệt, Bản sanh xứ, trong vườn Sa La, giữa hai cây Song Thọ, vào lúc sắp gần diệt độ, nói với A Nan rằng: Này A Nan!
Ngươi hãy vào thành Câu Thi Na Kiệt, báo tin cho những người Mạt La rằng: Chư Hiền nên biết, Như Lai nửa đêm nay sẽ vào Niết Bàn tại giữa cây Song Thọ trong vườn Sa La. Các ngươi nên kịp thời đến thưa hỏi các điều nghi ngờ và trực tiếp nghe Phật chỉ dạy, để sau khỏi hối hận ăn năn.
A Nan vâng lời Phật dạy, rời chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật mà đi. Cùng với một Tỳ Kheo khác, nước mắt chảy ròng, mà vào thành Câu Thi Na. Khi vào thành gặp năm trăm người Mạt La có chuyện đang họp cả một chỗ.
Họ thấy A Nan đến, đều đứng dậy chào hỏi rồi đứng về một bên và bạch rằng: Không hiểu Tôn Giả có việc gì mà phải vào thành lúc chiều tối thế này?
A Nan rơi lệ vừa nói: Ta vì ích lợi các ngươi, đến tin các ngươi hay Đức Như Lai đến nửa đêm nay sẽ vào Niết Bàn. Các ngươi nên kịp thời đến thưa hỏi những điều hoài nghi, trực tiếp nghe Phật chỉ dạy, để sau khỏi ăn năn.
Vừa nghe xong, những người Mạt La cất tiếng kêu than, vật vã xuống đất, có người ngất đi tỉnh lại. Ví như cây lớn khi trốc gốc thì các nhánh cành đều đổ gãy.
Họ đồng than:
Phật diệt độ sao mà nhanh thế.
Phật diệt độ làm sao nhanh thế.
Con mắt của thế gian mà diệt mất, thì chúng sanh bị suy hại lâu dài.
A Nan an ủi họ: Thôi các người chớ buồn.
Trời Đất muôn vật hễ có sanh đều có chết. Muốn cho pháp hữu vi tồn tại mãi là điều không thể có được.
Phật há chẳng dạy: Có hợp tất có ly, có sanh tất có diệt đó sao.
Rồi thì, các người Mạt La bảo nhau: Chúng ta hãy về nhà, đem cả gia thuộc và năm trăm khổ vải trắng, cùng đến Song Thọ.
Những người Mạt La ai về nhà nấy, rồi đem cả gia thuộc và mang cả năm trăm tấm lụa trắng ra khỏi thành Câu Thi, đến giữa rừng Song Thọ và đi đến chỗ A Nan.
A Nan vừa trông thấy từ xa, thầm nghĩ: Bọn họ rất đông. Nếu để cho từng người một vào yết kiến Phật, e rằng chưa khắp hết thì Như Lai đã diệt độ rồi. Ta nên bảo họ vào đầu hôm đồng một lượt đến bái yết Phật.
A Nan liền dắt năm trăm người Mạt La và gia thuộc đến trước Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng sang một bên và bạch rằng: Nay có các Mạt La tên như thế và gia thuộc, xin thăm hỏi Ðức Thế Tôn sức khoẻ có bình thường không?
Phật nói: Phiền các ngươi đến thăm. Ta chúc cho các ngươi sống lâu, vô bệnh.
A Nan bằng cách đó đã có thể dẫn hết các người Mạt La và gia thuộc của họ vào thăm Phật. Khi ấy, các Mạt La đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang một bên.
Thế Tôn thuyết giảng cho họ về vô thường, chỉ bày, giáo huấn khiến cho được lợi ích, hoan hỷ.
Nghe pháp xong, các Mạt La ai nấy vui mừng liền đem năm trăm khổ vải trắng dâng Phật. Phật thụ lãnh. Các Mạt La rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ Phật rồi lui ra.
Lúc đó, trong thành Câu Thi có một vị Phạm Chí tên Tu Bạt là bậc kỳ cựu đa trí, đã một trăm hai mươi tuổi, nhân nghe Đức Sa Môn Cù Đàm đêm nay sẽ diệt độ tại giữa cây Song Thọ, ông tự nghĩ: Ta có điều hoài nghi về giáo pháp. Chỉ có Đức Cù Đàm mới giải được ý ta. Ta nên kịp thời gắng đi đến Phật. Ngay đêm ấy ông gắng ra khỏi thành đi đến Song Thọ, đến chỗ A Nan.
Sau khi chào hỏi xong, ông thưa: Tôi nghe Sa Môn Cù Đàm sắp vào Niết Bàn đêm nay, nên đến đây mong được bái yết một lần. Tôi có điều hoài nghi về giáo pháp, mong được gặp Cù Đàm để Ngài giải quyết cho.
Vậy Ngài có được rỗi rảnh cho tôi vào bái yết không?
A Nan bảo: Thôi đừng Tu Bạt. Phật đang có bệnh. Không nên quấy rầy Ngài.
Tu Bạt cố nài xin đến ba lần rằng: Tôi nghe Đức Như Lai ra đời như hoa Ưu Đàm, rất lâu mới xuất hiện, nên đến đây mong bái yết để được giải quyết nghi ngờ.
Ngài có rỗi rảnh cho tôi gặp một lát được không?
A Nan cũng vẫn trả lời như trước: Phật đang có bệnh. Không nên quấy rầy Ngài.
Khi ấy Phật bảo A Nan: A Nan, ngươi chớ ngăn cản. Hãy để cho ông ấy vào. Ông muốn giải quyết sự nghi ngờ, không có gì phiền nhiễu. Nếu nghe được pháp của ta, ắt được tỏ rõ.
A Nan liền bảo Tu Bạt: Nếu ông muốn vào thăm Phật, xin mời vào.
Tu Bạt được vào, chào hỏi Phật xong, ngồi một bên và bạch Phật: Tôi có điều hoài nghi về giáo pháp.
Ngài có rỗi rảnh giải quyết cho chỗ vướng mắc không?
Phật nói: Ông cứ tùy ý hỏi.
Tu Bạt hỏi: Bạch Cù Đàm, có những giáo phái khác, họ tự xưng bậc thầy, như các ông Phất Lan Ca Diếp, Mạt Già Lê Kiều Xá Lợi, A Phù Đà Sí Xá Kim Bạt La, Ba Phù Ca Chiên, Tát Nhã Tỳ Da Lê Phất, Ni Kiền Tử.
Những thầy đó đều có giáo pháp riêng, đức Sa Môn Cù Đàm có biết hết hay không?
Phật đáp: Thôi thôi khỏi nói, những giáo pháp ấy ta đều rõ cả. Nay ta sẽ vì ngươi nói đến pháp thâm diệu, ngươi hãy lắng nghe và khôn khéo suy nghiệm.
Này Tu Bạt! Trong giáo pháp nào nếu không có tám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa Môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Trong giáo pháp nào có tám Thánh đạo thời ở đó có quả vị Sa Môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
Nay trong giáo pháp này có tám Thánh đạo nên có quả vị Sa Môn thứ nhất, quả vị Sa Môn thứ hai, thứ ba, thứ tư. Trong các chúng ngoại đạo không có.
Rồi Thế Tôn đọc bài kệ:
Ta hai mươi chín tuổi,
Xuất gia tìm chánh đạo.
Từ khi ta thành Phật,
Đến nay năm mươi năm.
Các hạnh giới, định, tuệ,
Một mình ta tư duy.
Nay ta giảng pháp yếu:
Ngoại đạo không Sa Môn.
Phật bảo: Này Tu Bạt! Nếu các Tỳ Kheo thảy đều có thể tự nhiếp tâm thời cõi thế gian này không trống vắng A La Hán.
Khi ấy Tu Bạt thưa với A Nan: Những ai theo đức Sa Môn Cù Đàm đã tu hành phạm hạnh, hiện đang tu hành và sẽ tu hành, thảy đều có lợi ích lớn.
A Nan, ông theo Như Lai tu hành phạm hạnh cũng được lợi ích lớn. Tôi nay được gặp mặt Như Lai, hỏi những điều nghi ngờ, cũng được lợi ích lớn. Nay Như Lai cũng đã ký biệt cho tôi như là ký biệt cho đệ tử.
Rồi ông bạch Phật: Tôi nay có thể ở trong pháp của Như Lai mà xuất gia thọ giới cụ túc được chăng?
Phật nói: Này Tu Bạt, nếu có dị học Phạm Chí muốn tu hành ở trong giáo pháp của ta, phải được thử qua bốn tháng để xét coi hành vi họ, chí nguyện, tánh nết họ.
Nếu thấy đủ các oai nghi không điều gì thiếu sót, mới cho phép thọ cụ túc giới ở trong giáo pháp ta. Tuy vậy, này Tu Bạt, còn tùy thuộc hành vi của mỗi người.
Tu Bạt lại bạch Phật: Dị học Phạm Chí muốn tu hành ở trong Phật pháp, phải được thử qua bốn tháng để xét coi hành vi, chí nguyện, tánh nết. Nếu thấy đủ các oai nghi không điều gì thiếu sót, mới cho phép thọ cụ túc giới ở trong Phật pháp. Nay tôi có thể phục dịch bốn năm ở trong Phật pháp, khi đủ các oai nghi không còn gì thiếu sót mới xin thọ cụ túc giới.
Phật dạy: Này Tu Bạt, ta đã nói trước rồi. Còn tùy thuộc hành vi của mỗi người.
Ngay trong đêm đó, Tu Bạt được xuất gia thọ giới, thanh tịnh tu hành, ngay trong hiện tại, tự thân tác chứng: Sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, chứng đắc như thật trí, không còn tái sinh. Lúc gần nửa đêm, ông đã chứng quả A La Hán, là đệ tử cuối cùng của Phật và diệt độ trước Phật.
Bấy giờ, A Nan đứng hầu sau Phật, không tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than khóc, rằng:
Như Lai diệt độ sao mà vội thế.
Thế Tôn diệt độ sao mà vội thế.
Đại pháp chìm lặng làm sao nhanh quá.
Con mắt thế gian diệt mất thì chúng sanh suy đọa lâu dài.
Ta nhờ ơn Phật xuất gia nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu nghiệp chưa thành mà Như Lai đã diệt độ.
Khi ấy Ðức Thế Tôn dù biết mà cố hỏi: Tỳ Kheo A Nan đâu rồi?
Các Tỳ Kheo bạch Phật: Tỳ Kheo A Nan đang ở sau Phật, không tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than khóc, rằng: Như Lai diệt độ sao mà vội thế.
Đại pháp chìm lặng làm sao mau quá. Con mắt thế gian diệt mất thì chúng sanh suy đọa lâu dài. Ta nhờ ơn Phật xuất gia nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu nghiệp chưa thành mà Như Lai đã diệt độ.
Phật bảo A Nan: Thôi thôi, A Nan, chớ có buồn phiền than khóc. Từ trước đến nay ngươi hầu hạ ta với cử chỉ từ hòa, ngôn ngữ kính ái và tâm niệm hoan hỷ thủy chung như một, không sao xiết kể.
Ầy là ngươi đã cúng dường ta, công đức rất lớn. Nếu có sự cúng dường nào của Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa Môn và Bà La Môn cũng không sao sánh bằng được. Ngươi hãy siêng năng lên, ngày thành đạo của ngươi không lâu nữa.
Rồi Thế Tôn nói với các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo!
Đệ tử hầu hạ Chư Phật quá khứ cũng chỉ như A Nan. Đệ tử hầu hạ Chư Phật vị lai cũng chỉ như A Nan. Nhưng đệ tử hầu hạ của Chư Phật quá khứ, Phật có dạy mới biết.
Còn A Nan nay, ta vừa đưa mắt là đã biết Như Lai cần muốn gì. Đó là điều hy hữu của A Nan, các ông nhớ lấy. Chuyển Luân Thánh Vương có bốn pháp đặc biệt, kỳ lạ ít có.
Những gì là bốn?
Khi Thánh Vương đi, người dân khắp cả nước đều đến nghênh đón. Thấy Vua rồi thì hoan hỷ, nghe lời dạy cũng hoan hỷ, chiêm ngưỡng uy nhan không hề biết chán.
Khi Thánh Vương đứng, khi Thánh Vương ngồi và khi Thánh Vương nằm, quốc dân đều đến bái yết, được thấy Vua họ vui mừng, được nghe Vua họ vui mừng, họ trông ngắm dung nhan Vua không biết chán.
Đó là bốn pháp đặc biệt của Chuyển Luân Thánh Vương. A Nan cũng có bốn pháp đặc biệt ấy. Khi A Nan lặng lẽ đi vào Chúng Tỳ Kheo, chúng đều hoan hỷ.
Thuyết Pháp cho chúng, ai nghe cũng hoan hỷ. Nhìn ngắm nghi dung, nghe lời thuyết pháp không hề biết chán.
Khi A Nan vào Chúng Tỳ Kheo Ni, khi A Nan vào chúng Ưu Bà Tắc, khi A Nan vào chúng Ưu Bà Di, nơi nào được trông thấy A Nan cũng vui mừng, được nghe A Nan thuyết pháp cũng vui mừng, họ trông nhìn nghi dung và lời A Nan thuyết pháp không biết chán. Đó là bốn pháp đặc biệt hy hữu của A Nan.
Bấy giờ, A Nan trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, bạch Phật: Thế Tôn, hiện nay các Sa Môn khắp bốn phương, gồm những vị kỳ cựu đa văn, thấu hiểu Kinh luật, đức hạnh thanh cao, thường đến bái yết Phật, nhân đó con được lễ kính và gần gũi hỏi han.
Nhưng sau khi Phật diệt độ rồi, họ không đến nữa, con không còn biết hỏi ai nữa, làm sao?
Phật bảo A Nan: Ngươi chớ lo!
Các con nhà dòng dõi thường có bốn chỗ tưởng nhớ:
1. Tưởng tới chỗ Phật sanh, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi không quên, sanh tâm luyến mộ.
2. Tưởng tới chỗ Phật thành đạo, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi không quên, sanh tâm luyến mộ.
3. Tưởng tới chỗ Phật Chuyển Pháp Luân đầu tiên, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi không quên, sanh tâm luyến mộ.
4. Tưởng tới chỗ Phật vào Niết Bàn, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi không quên, sanh tâm luyến mộ.
Này A Nan, sau khi ta diệt độ, trai hay gái con nhà dòng dõi nhớ nghĩ khi Phật giáng sinh có những công đức như thế, khi Phật đắc đạo có những thần thông như thế, khi Phật Chuyển Pháp Luân có những sự hóa độ như thế, khi Phật diệt độ có những lời di huấn như thế.
Rồi mỗi người đi đến bốn chỗ đó kính lễ, dựng Chùa Tháp cúng dường. Khi chết đều được sanh lên Cõi Trời, chỉ trừ người đắc đạo.
Này A Nan, sau khi ta diệt độ, có các người dòng họ Thích đến cầu đạo, hãy nhận cho họ xuất gia thọ giới cụ túc chớ để lâu. Những người Phạm Chí dị học đến cầu đạo cũng nhận cho xuất gia thọ giới cụ túc, chớ có để thử qua bốn tháng.
Vì những người kia vốn có học sẵn các luận thuyết khác, nếu để lâu thì các kiến giải trước của họ sẽ phát sanh lại.
Bấy giờ A Nan quỳ xuống, chắp tay bạch Phật: Tỳ Kheo Xiển Nộ thô lỗ, tự chuyên, sau khi Phật diệt độ, phải đối xử thế nào?
Phật dạy: Sau khi ta diệt độ, nếu Tỳ Kheo Xiển Nộ không tuân oai nghi, không chịu nghe giáo huấn, các ông hãy cùng xử trị theo phép phạm đàn là truyền hết các Tỳ Kheo không ai được cùng nói chuyện, cùng tới lui, chỉ bảo, giúp đỡ.
A Nan lại bạch Phật: Sau khi Phật diệt độ, các hạng nữ nhân đến thọ giáo huấn cần được đối xử như thế nào?
Phật dạy: Đừng gặp họ.
Giả sử phải gặp thì làm sao?
Chớ cùng nói chuyện.
Giả sử phải cùng nói chuyện thì làm sao?
Hãy tự thu nhiếp tâm ý.
Này A Nan, ngươi chớ nghĩ sau khi ta diệt độ, các ngươi mất chỗ nương tựa, không ai che chở. Chớ có quan niệm như vậy. Nên biết những Kinh và giới mà ta đã dạy từ khi thành đạo đến nay là chỗ nương tựa, che chở các ngươi đó.
Này A Nan, từ nay trở đi, cho phép các Tỳ Kheo tùy nghi bỏ các giới cấm nhỏ nhặt. Kẻ trên, người dưới xưng hô nhau phải thuận lễ độ. Đó là pháp kính thuận của người xuất gia.
Rồi Phật nói với các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo, đối với Phật, Pháp và Chúng Tăng, đối với chánh đạo, các ông có điều gì hoài nghi nữa không, nên kịp thời hỏi han để sau khỏi hối hận ăn năn. Kịp lúc ta còn, ta sẽ giảng thuyết cho các ngươi. Các Tỳ Kheo đều im lặng.
Phật lại nói: Các ngươi, đối với Phật, pháp và Chúng Tăng, đối với chánh đạo, các ông có điều gì hoài nghi nữa không, nên kịp thời hỏi han để sau khỏi hối hận ăn năn. Các Tỳ Kheo cũng vẫn lặng thinh.
Phật lại nói: Nếu các ngươi e ngại không dám hỏi, hãy mau nhờ các vị hiểu biết hỏi giúp cho, nên kịp thời để sau khỏi hối hận. Các Tỳ Kheo cũng vẫn lặng thinh.
A Nan bạch Phật: Con tin rằng đại chúng ở đây ai nấy đều đã có lòng tin thanh tịnh, không một ai còn hoài nghi về Phật, Pháp, Tăng và chánh đạo nữa.
Phật dạy: A Nan, ta cũng biết trong chúng này dù một vị Tỳ Kheo nhỏ nhất cũng thấy được dấu đạo, không còn đọa vào đường ác, chỉ trải qua bảy lần sanh lại Cõi Dục này để tu hành là dứt hết thống khổ.
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn liền thọ ký cho một ngàn hai trăm đệ tử đã được đạo quả.
Rồi Thế Tôn khoác lên Uất Đa La Tăng để lộ cánh tay sắc màu vàng ròng, bảo với các Tỳ Kheo: Các ngươi hãy quán sát rằng, Như Lai mỗi khi xuất thế, như hoa Ưu Đàm Bát Lâu lắm mới hiện một lần.
Quan sát ý nghĩa này, Thế Tôn đọc bài kệ:
Tay phải màu tử kim,
Phật hiện như linh thụy.
Hành sinh diệt vô thường,
Hiện diệt, chớ buông lung.
Thế nên các Tỳ Kheo chớ có buông lung. Ta chính nhờ không buông lung mà được thành Chánh Giác. Vô lượng điều lành toàn nhờ không buông lung mà có được.
Hết thảy vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của Như Lai.
Thế rồi, Thế Tôn nhập Sơ Thiền. Rồi từ Sơ Thiền xuất, nhập Nhị Thiền. Từ Nhị Thiền xuất, nhập Tam Thiền. Từ Tam Thiền xuất, nhập Tứ Thiền, từ Tứ Thiền xuất, nhập Không xứ định, Từ Không xứ định xuất, nhập Thức xứ.
Từ Thức Xứ Định xuất, nhập vào Vô sở hữu xứ. Từ Vô sở hữu xứ định xuất, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ định xuất, nhập Diệt thọ tưởng định.
Lúc ấy A Nan hỏi A Na Luật: Thế Tôn đã vào Niết Bàn rồi chăng?
A Na Luật nói: Chưa, A Nan. Thế Tôn hiện đang ở trong định Diệt thọ tưởng. Tôi lúc trước được thân nghe từ Phật rằng, khi Phật từ Tứ Thiền xuất mới vào Niết Bàn.
Rồi Thế Tôn từ Diệt thọ tưởng định xuất, nhập Phi tưởng phi phi tưởng, từ Phi tưởng phi phi tưởng xuất, nhập Vô Sở Hữu Định.
Từ Vô Sở Hữu Định xuất, nhập Thức Xứ Định.
Từ Thức Xứ Định xuất, nhập Không Xứ Định.
Từ Không Xứ Định xuất, nhập Tứ Thiền.
Từ Tứ Thiền xuất, nhập Tam Thiền.
Từ Tam Thiền xuất, nhập Nhị Thiền.
Từ Nhị Thiền xuất, nhập Sơ Thiền.
Rồi lại từ Sơ Thiền xuất lần lượt đến Tứ Thiền, rồi từ Tứ Thiền Xuất, Phật vào Niết Bàn. Ngay lúc đó, cõi đất rung động, Trời người kinh hoàng. Những chỗ tối tăm mà mặt trăng, mặt trời không rọi đến được đều được chói sáng.
Chúng sanh ở đó trông thấy nhau và bảo nhau:
Người kia sinh ra người này.
Người kia sinh ra người này.
Ánh sáng ấy chiếu khắp, hơn cả ánh sáng của Chư Thiên.
Bấy giờ, Trời Đao Lợi, ở giữa hư không, dùng hoa Văn Đa La, hoa Ưu Bát La, hoa Ba Đầu Ma, hoa Câu Ma Đầu, hoa Phân Đà Lỵ, tán rải trên thân Phật và chúng hội. Rồi lại lấy bột hương Chiên Đàn tán rải trên thân Phật và chúng hội.
Phật diệt độ rồi, khi ấy Phạm Thiên Vương ở giữa hư không ngâm bài kệ rằng:
Hết thảy loài sinh linh,
Đều phải bỏ thân mạng.
Phật là Đấng Vô Thượng,
Thế gian không ai bằng,
Như Lai Đại Thánh hùng,
Có thần lực vô úy,
Đáng lẽ ở đời lâu,
Nhưng nay diệt độ rồi.
Trời Thích Đề Hoàn Nhân đọc bài kệ:
Ầm hành đều vô thường
Chỉ là pháp sinh diệt.
Có sanh đều có chết,
Phật tịch diệt là vui.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương đọc bài kệ:
Đại tòng lâm cây phúc,
Sa La phước vô thượng.
Đấng Ứng Cúng Phước Điền,
Diệt độ giữa rừng cây.
Tỳ Kheo A Na Luật đọc bài kệ:
Phật an trú vô vi,
Không cần thở ra vào.
Vốn từ tịch diệt đến,
Sao thiêng lặn nơi đây.
Tỳ Kheo Phạm Na Ma đọc bài kệ:
Không sanh tâm giải mạn
Tự ước, tu thượng tuệ.
Không nhiễm, không bị nhiễm,
Đấng Chí Tôn lìa ái.
Tỳ Kheo A Nan đọc bài kệ:
Trời người lòng kinh sợ,
Toàn thân lông dựng lên.
Việc giáo hóa thành tựu,
Thế Tôn vào Niết Bàn.
Thần Kim Tỳ La dâng lời tán Phật:
Thế gian mất che chở,
Chúng sanh trọn mù lòa
Không còn thấy Chánh Giác,
Đấng Sư Tử giữa người.
Mật Tích lực sĩ đọc bài kệ:
Các Thiên, Nhân, Ma, Phạm,
Đời nay và đời sau,
Không còn thấy được Phật,
Bậc Sư Tử giữa người.
Phật Mẫu Ma Da đọc bài kệ:
Phật sanh vườn Lâm Tỳ,
Đạo Ngài lưu bố rộng.
Trở lại chỗ bản sinh,
Ngài xả thân vô thường.
Thần Song Thọ đọc bài kệ:
Bao giờ tôi lại lấy
Hoa sái mùa cúng dâng
Đấng trọn đủ mười lực,
Như Lai vào Niết Bàn.
Thần rừng cây Sa La đọc bài kệ:
Chỗ này vui thượng diệu,
Phật sanh trưởng tại đây.
Ở đây chuyển xe pháp,
Lại ở đây Niết Bàn.
Tứ Thiên Vương đọc bài kệ:
Như Lai vô thượng trí,
Thường diễn lẽ vô thường.
Cởi trói chúng sanh khổ,
Nay trọn vào Niết Bàn.
Đao Lợi Thiên Vương đọc bài kệ:
Trải ức ngàn vạn kiếp,
Mong thành đạo vô thượng.
Cởi trói chúng sanh khổ,
Nay trọn vào Niết Bàn.
Diệm Thiên Vương đọc bài kệ:
Đây mảnh y tối hậu
Dùng quấn thân Như Lai.
Nay Phật diệt độ rồi,
Y này để cúng ai.
Đâu Suất Đà Thiên Vương đọc bài kệ:
Đây là thân cuối cùng,
Ầm giới diệt ở đây.
Không tâm tưởng lo mừng,
Không tai hoạn già chết.
Hóa tự tại Thiên Vương đọc bài kệ:
Đúng vào giữa đêm nay,
Phật nằm nghiêng bên hữu.
Ở tại rừng Sa La,
Thích Sư Tử diệt độ.
Tha hóa tự tại Thiên Vương đọc bài kệ:
Thế gian mãi tối tăm,
Trăng sao đều rơi rụng,
Mây vô thường che kín,
Mặt Trời đại trí mờ.
Các Tỳ Kheo đọc bài kệ:
Thân này như bèo bọt,
Mong manh có gì vui.
Phật được Kim Cang thân,
Còn bị vô thường hoại.
Thể Kim Cang Chư Phật,
Cũng đều quy vô thường
Tiêu tan như băng tuyết,
Huống những người thế gian.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Ba - Phẩm Không Buông Lung - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh Ba Pháp Quán Bảy Xứ - Kinh Số Hai Mươi Mốt
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Ba - Phẩm địa Ngục - Tập Hai Mươi Hai
Phật Thuyết Kinh Hoa Thủ - Phẩm Năm - Phẩm Bất Tín
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Mười Một - Phẩm Kệ Tụng Phần Thứ Nhì - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Bốn Mươi Sáu - Phẩm Ma Sự
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Bảy - Phẩm Thân Niệm Xứ - Tập Ba