Phật Thuyết Kinh ưu Bà Tắc Giới - Phẩm Hai Mươi Bốn - Nghiệp Báo - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

 

PHẨM HAI MƯƠI BỐN  

 

NGHIỆP BÁO  

PHẦN MỘT  

Thiện Sinh bạch Phật: Kính bạch Đức Thế Tôn! Lúc các Đức Phật chưa xuất hiện thế gian, các Đại Bồ Tát lấy gì làm giới pháp?

Thiện nam tử! Khi Đức Phật chưa xuất thế, lúc đó chưa có Tam Quy Y, cùng giới pháp, chỉ có mười pháp lành, mà người trí dùng đây làm phương tiện tu tập cầu đạo bồ đề. Mười pháp lành này, ngoài Chư Phật ra, không ai có thể phân biệt giảng nói. Pháp này, Chư Phật đời quá khứ giảng nói, lưu truyền cho đến ngày nay không mất, người trí lãnh thọ hành trì.

Thiện nam tử! Chúng sinh không thể thọ trì tu tập mười pháp lành này, là do trong đời quá khứ không gần gũi, hỏi pháp, cúng dường Chư Phật.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều có tâm tưởng tạp loạn, do tâm tưởng tạp loạn mà có phiền não tạp loạn, vì phiền não tạp loạn mà tạo nghiệp tạp loạn, vì nghiệp tạp loạn mà nên sinh vào các cõi tạp loạn, do cõi nước tạp loạn mà thọ thân tạp loạn.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh sau khi thọ thân tạp loạn, thấy hình sắc tạp loạn, sau khi thấy hình sắc tạp loạn, bèn suy ngẫm điều ác, sự nghĩ ác này gọi là vô minh.

Vì nhân duyên vô minh, sinh tâm mong cầu, đây gọi là ái, do tâm ái mà tạo tác, đây gọi là nghiệp, do nhân duyên tạo nghiệp, sẽ bị quả báo. Người trí có thể thấy rõ, sự trói buộc là do phiền não bên trong và nhân duyên bên ngoài. Thế nhưng, tu mười nghiệp lành thì có thể diệt trừ sự trói buộc đó.

Cho nên, Đức Như Lai khi vừa mới đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, liền phân biệt diễn nói giáo pháp thập thiện. Nhân vì pháp thập thiện, thế gian mới có việc lành việc ác, bạn lành bạn ác, nhẫn đến có sự giải thoát, vì thế chúng sinh phải nên phân biệt hiểu rõ con đường thập thiện.

Do vì sự tu thập thiện mà có gió mây nâng giữ biển lớn, cung điện A Tu La, đại địa, núi lớn, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, Trời Tứ Thiên Vương, nhẫn đến Trời Tha Hóa Tự Tại.

Cũng do nhân duyên tu tập thập thiện mà Chuyển Luân Thánh Vương có bốn loại xe: Vàng, bạc, đồng, sắt, và có bảy chúng thọ giới, cầu ba loại bồ đề. Cũng vì nhân duyên thập thiện nghiệp đạo mà có sự tăng giảm của những vật trong, vật ngoài, sắc lực và thọ mạng của tất cả chúng sinh. Vì thế, người trí phải nên tu tập đầy đủ pháp thập thiện này.

Chẳng hạn, như chúng sinh, lúc thiếu thời, lúc trai tráng, lúc già cả, hay trong các mùa xuân, hạ, thu, đông, sự sinh khởi phiền não của họ đều mỗi lúc mỗi khác. Tương tự như thế, sự sinh khởi phiền não của chúng sinh trong tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp cũng đều sai khác.

Chúng sinh lúc mới tu pháp thập thiện nghiệp, được đầy đủ vô lượng thọ mệnh, sắc lực, hương thơm, mùi vị, thế nhưng do tham sân si, cho nên mất hết tất cả những quả báo đó. Do nhân duyên của thập ác nghiệp, mà thời tiết, năm tháng, các vì sao, mặt trời, mặt trăng, đất nước gió lửa v.v... tất cả đều đổi khác.

Người nào có thể nhận rõ những điều này, phải biết người đó sẽ được giải thoát. Do bởi nhân duyên của sự khổ mà chúng sinh khởi lòng tin, đã có lòng tin, thì có thể nhận rõ thiện ác, đã nhận rõ như vậy rồi, bèn tu mười pháp lành.

Vì ý nghiệp đi khắp mười nơi, nên gọi là mười đường. Ba đường của thân là sát hại, trộm cắp, dâm dục. Bốn đường của miệng là nói lời độc dữ, nói dối, nói đâm thọc, nói lời vô nghĩa.

Ba đường của tâm là ganh ghét, giận dữ, tà kiến. Mười nghiệp ác này là cội gốc của tất cả tội lỗi. Do bởi cảnh giới, quốc độ, cuộc sống, hình tướng, thọ mạng, tên gọi của chúng sinh đều khác nhau, cho nên nghiệp đạo phải là vô lượng, chứ không phải chỉ có mười. Trong mười nghiệp này, ba nghiệp của tâm, chỉ gọi là nghiệp, mà không gọi là đạo.

Còn bảy nghiệp của thân và miệng, thì vừa gọi là nghiệp, vừa gọi là đạo, tổng cộng là mười. Mười nghiệp đạo này, hoặc là tự mình làm, hoặc người khác làm, hoặc mình và người cùng làm, đều đưa đến hai quả báo, hoặc lành hoặc dữ, đây cũng là nhân duyên thiện ác của chúng sinh.

Bởi thế, đối với việc ác, người trí còn không nghĩ đến, huống là tự thân mình cố ý làm?

Nếu có người để cho phiền não kiết phược mặc tình thao túng, phải biết người đó đang tạo mười nghiệp ác. Người nào có thể trừ diệt không cho phiền não kiết phược lộng hành, thì đó là người tạo mười nghiệp lành. Nếu có người chỉ mới dự định làm ác, hoặc không có mưu tính trước, khi đụng cảnh bất chợt tạo ác, thì người đó không phạm tội do sự tạo nghiệp.

Bởi thế, người trí phải nên siêng cần tu tập mười nghiệp lành. Sự tu chứng bốn Thánh Đế cũng giống như vậy. Dự định ngày giờ làm ác, nhưng nếu lỡ thời gian, cũng không gọi là có tội.

Bởi thế, người trí phải nên tu mười nghiệp lành, nhân vì chúng sinh tu tập mười pháp lành, cho nên được tăng trưởng thọ mệnh, cùng tài sản trong, ngoài. Do nhân duyên phiền não, mà mười nghiệp ác tăng trưởng. Nếu không có nhân duyên phiền não, mười nghiệp lành sẽ tăng trưởng.

Thiện nam tử! Mười nghiệp đạo này, mỗi nghiệp đều có ba phần, một là căn bản, hai là phương tiện, ba là đã thành.

Căn bản, nghĩa là biết, hoặc nghi đối phương là người, là chúng sinh, nếu như tự mình giết chết, hoặc dùng thân ra dấu, hoặc miệng bảo người khác giết, thì gọi là căn bản. Nếu như đi tìm dao, mài dao cho bén, mua thuốc độc, bện dây, với ý đồ giết chết, thì gọi đó là phương tiện.

Nếu như sau khi giết chết, lấy tay rờ mó, nghĩ cách xử lý, hoặc tự mình ăn, hoặc cùng với người khác ăn, hoặc suy tính đổi chác, hoặc tùy ý cho người khác, cảm thấy vui sướng, không biết hổ thẹn, tâm không hối hận, lấy làm hãnh diện, sinh tâm ngạo mạn, đây gọi là đã thành.

Vật thuộc về người khác, và mình cũng biết như vậy, nếu tự mình đi trộm, hoặc bảo người khác trộm, hoặc dùng tâm nghi dời vật để chỗ khác, đây gọi là căn bản.

Nếu phá hàng rào, phá tường, hoặc dùng thang leo tường, vào nhà tìm kiếm, nhẫn đến lấy tay sờ vào vật, đây gọi là phương tiện. Sau khi trộm xong, đem vật cất giấu, tùy ý cho người khác, bán buôn đổi chác, vui vẻ hưởng dụng, không biết hổ thẹn, lòng không hối hận, lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Hoặc biết, hoặc nghi người đàn bà đã thuộc người khác, mà vẫn làm chuyện tà dâm với họ, đây gọi là căn bản. Nếu nhờ người đến gặp, hoặc tự mình gặp họ, hoặc gửi thư từ, hoặc đụng chạm vào thân, hoặc dùng lời đường mật để quyến dụ, đây gọi là phương tiện.

Nếu sau khi thỏa mãn sự tà dâm, đem tặng đồ trang sức, chung ngồi ăn uống, vui vẻ thỏa thích, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, tự lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Nếu ở giữa đám đông, dấu diếm sự thật, hoặc trong ba thời hoặc hai thời của một ngày, nói lời hư dối, đây gọi là căn bản. Nếu như trước đó, sắp đặt mưu toan, thêu dệt lời nói, hoặc đem lời của người này nói cho người khác biết, đây gọi là phương tiện.

Nếu như do sự vọng ngữ mà được đồ vật, hoặc đem cho người khác, hoặc hoan hỷ hưởng dụng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, tự lấy làm hãnh diện, sinh tâm kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Nếu trong sự nói dối, lại xen lời đâm thọc, phá hoại sự hòa hợp, đây gọi là căn bản.

Nói lỗi người khác cùng những việc xấu của họ, như nói: Không thể nào hòa hợp được, tốt nhất là nên xa nhau, đây gọi là phương tiện. Do kết quả phá hoại sự hòa hợp, nhận được tiền của, tùy ý đem cho người khác, vui vẻ hưởng dụng, không biết hổ thẹn, lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Nếu đổi sắc mặt, dùng lời độc ác chửi rủa người khác, đây gọi là căn bản. Hoặc nghe lời người khác, bèn gọt dũa lời nói, đến tìm người kia, dự định chửi rủa, thóa mạ, đây gọi là phương tiện. Sau khi chửi rủa, nhận được tiền của, tùy ý đem cho, hoặc hoan hỷ hưởng dụng, không biết hổ thẹn, không biết sám hối, tự lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Nếu nói lời dâm đãng, hoặc nói lời không thích đáng, đây gọi là căn bản. Hoặc hát, hoặc ngâm những lời vô nghĩa, bày vẻ nhiều phương cách để chiều theo thị hiếu của người khác, đây gọi là phương tiện.

Nếu dạy người khác những sự việc vô nghĩa để lấy tiền, tùy ý đem cho, hoặc vui vẻ hưởng dụng, không biết hổ thẹn, không biết sám hối, lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Đối với tài sản người khác, sinh lòng tham muốn chiếm đoạt, đây gọi là căn bản. Sinh tâm phiền não, đây gọi là phương tiện. Do tham mà được tài sản, tùy ý đem cho, hoặc vui vẻ hưởng dụng, lại còn khoe khoang, không biết hổ thẹn, không biết sám hối, lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Nếu đánh chửi người khác, đây gọi là căn bản. Nếu tay cầm gậy, đá, gây sự với người khác, đây gọi là phương tiện. Đánh xong vui mừng, thọ nhận tài vật, tùy ý đem cho, hoặc vui vẻ hưởng dụng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Nếu phỉ báng nghiệp báo, nhân quả, chân đế, hoặc thánh hiền, đây gọi là căn bản. Nếu đọc tụng, sao chép, tin tưởng lãnh thọ Kinh Sách ngoại đạo, khen ngợi, tán thán, đây gọi là phương tiện.

Lãnh thọ tà pháp xong, đem giảng giải cho người khác, làm cho họ tăng trưởng tà kiến, thọ nhận tài vật, tùy ý đem cho, vui vẻ hưởng dụng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lấy làm hãnh diện, sinh lòng kiêu mạn, đây gọi là đã thành.

Đối với mười nghiệp đạo, có người, hoặc cùng lúc phạm hai tội: Nói dối, nói đâm thọc.

Hoặc cùng lúc phạm ba tội: Nói dối, nói đâm thọc, nói lời độc ác.

Hoặc ba tội: Tà kiến, nói lời độc ác, nói dối. Phạm ba điều đó, tức là nói lời vô nghĩa, do đó thành ra phạm bốn tội. Sự giận dữ và tham lam không cùng đi với nhau. Còn tám tội kia có thể xảy ra cùng lúc.

Thế nào là cùng lúc?

Chẳng hạn như sai người khác làm sáu việc kia, còn mình thì làm hai việc:

Một là tà dâm với vợ người khác.

Hai là cho rằng không có nghiệp quả.

Vì sự việc được kỳ hẹn trước, nên mười nghiệp ác đã được tạo tác cùng một lúc.

Mười nghiệp ác này, hoặc chỉ là tác sắc mà không có vô tác sắc, hoặc gồm cả hai phần tác sắc và vô tác sắc. Giả như một hành động ác, nếu như không có sự tạo lập phương tiện và khởi tâm vui mừng sau khi tạo tác, thì chỉ có tác sắc mà không có vô tác sắc. Còn nếu tạo lập phương tiện và khởi tâm vui mừng sau khi tạo tác, thì nghiệp ác này gồm cả tác sắc và vô tác sắc.

Mười nghiệp ác này có nhẹ có nặng: Giết hại cha mẹ và Bích Chi Phật.

Trộm cắp tài vật của Tam Bảo.

Làm chuyện dâm dục với mẹ ruột mình hoặc A La Hán Ni.

Nói dối làm phá hoại sự hòa hợp của Tăng Đoàn, đây gọi là tội nặng.

Thiện nam tử!

Mười nghiệp này, mỗi nghiệp có ba loại:

Một là từ tâm tham sinh khởi.

Hai là từ tâm sân sinh khởi.

Ba là từ tâm si sinh khởi.

Nếu vì tham lợi mà sát hại, đây gọi là từ tâm tham sinh khởi. Nếu như giết kẻ thù, đây gọi là từ tâm sân sinh khởi. Nếu như giết cha mẹ, đây gọi là từ tâm si sinh khởi.

Trộm cắp đồ vật của người khác cũng có ba loại. Nếu vì tự thân, vợ con, họ hàng nên khởi tâm tham muốn tài sản của người khác mà đi cướp đoạt, đây gọi là do tâm tham mà cướp. Nếu như trộm cướp tài sản của kẻ thù, đây gọi là do tâm sân mà cướp. Nếu như trộm cướp của những người nghèo khổ hơn mình, đây gọi là do tâm si mà cướp.

Tà dâm cũng có ba loại. Nếu vì khoái lạc tự thân mà làm chuyện tà dâm, đây gọi là do tâm tham mà tà dâm. Nếu làm việc tà dâm với quyến thuộc của kẻ thù, đây gọi là do tâm sân mà tà dâm. Nếu làm việc tà dâm với cha mẹ của chính mình, đây gọi là do tâm si mà tà dâm.

Vọng ngữ cũng có ba loại. Nếu vì muốn có tài sản lợi dưỡng để tự mình hưởng thọ khoái lạc mà nói dối, đây gọi là do tâm tham mà nói dối. Nếu vì muốn phá hoại kẻ thù mà nói dối, đây gọi là do tâm sân mà nói dối. Nếu vì sợ chết mà nói dối, đây là do tâm si mà nói dối.

Nói lời đâm thọc cũng có ba loại. Nếu vì tiền của mà nói đâm thọc, đây gọi là do tâm tham. Nếu vì phá hoại kẻ thù mà nói đâm thọc, đây gọi là do tâm sân. Còn những kẻ tà kiến phá hoại sự hòa hợp của người khác, đây gọi là do tâm si.

Nói lời ác cũng có ba loại. Do tiền của mà chửi rủa đàn bà trẻ con, đây gọi là do tâm tham. Cố ý nói xấu kẻ thù, đây gọi là do tâm sân. Nói việc xấu của tổ tiên người khác, đây là do tâm si.

Nói lời vô nghĩa cũng có ba loại. Nếu vì ham vui mà huyên náo khoát lác, đây gọi là do tâm tham. Nếu vì muốn lấn lướt người khác mà huyên náo khoác lác, đây gọi là do tâm sân. Nếu vì tăng thêm tà kiến mà huyên náo khoát lác, đây gọi là do tâm si. Từ tâm tham sinh khởi gọi là đố kỵ, từ tâm sân sinh khởi gọi là giận hờn, từ tâm si sinh khởi gọi là tà kiến.

Sau khi tu mỗi nghiệp thiện xong, trong mỗi nghiệp thiện đều được ba giải thoát. Còn mười nghiệp ác chắc chắn sẽ thọ quả báo, hoặc ở địa ngục, hoặc ở ngạ quỷ, hoặc ở súc sanh.

Sau đó, do ác báo dư thừa, sẽ bị sanh làm người chết yểu, nghèo hèn khốn khổ, vợ không trinh tiết, lời nói không ai tin, không ai thân thích, thường bị phỉ báng, không được nghe lời tốt.

Do ác nghiệp chiêu cảm ảnh hưởng đến bên ngoài làm cho hoàn cảnh chung quanh hư tổn, vô thường, gió to mưa lớn, hư rã thối rữa, đất đai gập ghềnh, không có bảy báu, phần lớn chỉ là cát đá gai gốc, thời tiết biến đổi không định, dưa trái èo ọt, mùi vị nhạt nhẽo.

Nếu muốn trừ diệt những sự việc bất tường như vậy, phải nên chí tâm tu tập mười pháp lành. Mười pháp lành này, ba châu đầy đủ cả mười, hoặc được nhiếp vào giới luật, hoặc không được nhiếp vào giới luật. Riêng châu Uất Đan Việt ở phía Bắc chỉ có bốn pháp. 

Chúng sinh ở địa ngục chỉ có năm pháp. Còn chúng sinh ở cõi ngạ quỷ, súc sinh, và Cõi Trời thì gồm đủ cả mười pháp, đều không nhiếp vào giới luật. Sáu Cõi Trời dục giới, khi tạo nghiệp, không có phần lập phương tiện, mà chỉ có phần căn bản và phần đã thành.

Hơn nữa, chỉ cần một niệm là có thể thành tựu nghiệp quả, ví dụ, nếu như người giết và người bị giết cùng chết một lúc, thì người giết không phạm vào nghiệp quả căn bản.

Nếu như lập phương tiện để giết, cuối cùng không thành, thì chỉ phạm tội phương tiện, mà không phạm tội căn bản. Nếu sau khi lập phương tiện, thành tựu sự sát hại, thì phạm vào tội căn bản.

Nếu như sau khi giết, không truy cầu phần đã thành, thì không phạm tội vô tác. Nếu như người giết, chết trước người bị giết, dù chỉ một khoảng thời gian rất ngắn, người giết không bị phạm tội căn bản. Nếu như phái người đi giết, người đi giết phạm tội tác, người phái phạm hai tội tác và vô tác.

Nếu như dùng lời ác ra lệnh, cũng bị hai tội tác và vô tác. Nếu như sự giết hoàn thành, người ra lệnh, dù dùng tâm thiện hay ác, đều phạm hai tội tác và vô tác.

Nếu có người nói: Quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, hiện tại không dừng, làm sao gọi là giết?

Một niệm không giết, thì một hạt bụi cũng không bị hư hoại.

Nếu như một niệm không giết, nhiều niệm cũng không thể giết, sao lại gọi là giết?

Điều này không đúng!

Vì sao?

Tuy rằng trong một niệm ở hiện tại không có sự giết, nhưng vì hành động giết đó chấm dứt sự hiện khởi của năm ấm ở niệm sau, nên gọi là giết. Do ý nghĩa này, không thể vì thấy một nơi không có sự giết, mà có thể nói ở tất cả mọi nơi không có sự giết.

Hoặc có người bị đâm vào tay mà chết, hoặc có người bị cắt chân mà vẫn sống. Đầu thì không phải thế, dù bị đâm hay bị cắt, đều chết. Nếu có người làm rồi bị tội lớn, đây gọi là nghiệp đạo. Tự mình có thể tạo ba nghiệp của ý, còn bảy nghiệp của thân và miệng, phải có hai bên, mình và người, mới có thể hoàn thành. Nếu không có người tạo nghiệp, thì cũng không có tội vô tác.

Hoặc có người nói: Ba nghiệp của thân có tội tác và tội vô tác, miệng thì không phải vậy.

Điều này không đúng!

Vì sao?

Nếu như miệng không có tội tác và vô tác, khi miệng ra lệnh giết, lẽ ra không nên mắc tội. Vì vậy miệng cũng phải có hai tội tác và vô tác. Tâm thì không như thế.

Vì sao?

Vì các Bậc Hiền Thánh không bị mắc tội.

Vì nhân duyên nào gọi là tác, vô tác?

Vì nghiệp ấy làm cho đọa vào ba đường ác, sinh vào loài người thì bị yểu mệnh, sáu căn thường bị thọ khổ. Sau đó thọ quả báo dư thừa, hoặc tương tự hoặc không tương tự với quả báo chánh thức. Lúc thọ quả báo chánh thức, thì bị đọa trong địa ngục hoạt, địa ngục hắc thằng, sau đó sẽ sanh vào ba cõi ngạ quỷ, súc sanh, và cõi người, nhận chịu quả báo dư thừa.

Nếu như dự định giết một người, nhưng sau đó lại giết chết hai người, thì chỉ đối với người định giết đầu tiên bị mắc hai tội tác và vô tác.

Hoặc có người cho rằng: Sắc là vô ký, mệnh cũng là vô ký.

Nếu đã là vô ký, tại sao sau khi giết lại mắc tội sát?

Điều này không đúng!

Vì sao?

Thân mạng là khí cụ chứa đựng tâm niệm thiện ác, nếu phá diệt khí cụ đó, tức là cắt đứt tâm niệm thiện ác, do đây mà bị mắc tội. Giả như nhà Vua hạ lệnh giết, nếu bầy tôi tán thành, thì Vua tôi đều mắc tội như nhau. Việc săn bắn cũng giống như thế.

Nếu có người sắp chết, chỉ còn thoi thóp một giây, nếu như dùng dao giết chết, thì vẫn mắc tội giết người. Còn nếu như người ấy đã chết, mà dùng dao đâm chém, thì không mắc tội giết người.

Nếu như trước dự định đánh đối phương, vừa đưa bàn tay đến thì đối phương mệnh chung, người đánh không phạm tội giết người. Nếu điều chế thuốc độc, đưa cho sản phụ uống, nếu như thai nhi bị chết, người đó bị hai tội tác và vô tác. Nếu như tự sát, không bị mắc tội giết người.

Vì sao?

Vì không có ý tưởng giết chết người khác, vì không có tâm sân hận, và vì không phải là nhân duyên giữa ta và người khác.

Hoặc có người cho rằng: Lúc sát hại, dù tâm ở trạng thái thiện, ác hay vô ký, đều bị mắc tội sát hại, giống như lửa hoặc chất độc, tuy ở trạng thái thiện, ác hoặc vô ký, người chạm đến lửa, hoặc ăn chất độc, đều bị mất mạng.

Điều này không đúng!

Vì sao?

Trên đời có người cầm lửa mà không bị cháy, hoặc ăn chất độc mà không chết. Sát hại mà không có tâm ác cũng giống như vậy. Lại giống như thầy thuốc, v.v...

Hoặc có người cho rằng: Bà Tẩu tiên nhân đọc chú giết người, hoặc giết dê tế Trời, đều không bị mắc tội giết hại.

Điều này không đúng!

Vì sao?

Vì cắt đứt mạng sống của chúng sinh khác, vì nhân duyên ngu si!

Nếu như thấy người khác bị chết, lòng sinh vui mừng, nên biết người đó bị mắc tội đã thành. Thấy người khác giết, sinh lòng vui mừng, lấy tài vật ban thưởng, cũng giống như trường hợp trên. Nếu như sai khiến sứ giả đi giết, sứ giả khi đến nơi, bèn dùng nhiều phương pháp ác độc mà giết, thì người sai khiến chỉ phạm tội tác, còn sứ giả bị mắc cả hai tội tác và vô tác.

Nếu khởi tâm ác cướp đoạt tài vật của người khác, cũng bị mắc hai tội tác và vô tác. Hoặc nhân lúc đang đếm mà đoạt lấy, hoặc nhân người khác gửi mà đoạt lấy, hoặc nhân lúc trao đổi hàng hóa mà đoạt lấy, đều bị mắc tội trộm cướp. Nếu có người tự mình không cướp đoạt, không tham, không dùng, nhưng lại bảo người khác cướp đoạt, người ấy cũng bị mắc hai tội tác và vô tác.

Giả như muốn trộm vàng, lúc trộm lại lấy nhầm bạc, lấy xong mới biết mình nhầm, bèn đem hoàn lại chỗ cũ, người đó không bị phạm tội trộm. Giả như muốn trộm vàng, trộm được, bèn nghĩ tưởng đến sự vô thường, sinh lòng hối hận, muốn đem trả lại cho chủ nhưng không dám, bèn tìm phương tiện khác hoàn trả vật đã trộm, tuy vật bị trộm đã rời bổn xứ, nhưng kẻ trộm vẫn không bị phạm tội trộm.

Lại như, có kẻ tôi tớ được chủ nhân ban cho tài vật sử dụng, thoạt tiên, kẻ tôi tớ nhận rằng đây là tài vật của mình và chủ dùng chung, nhưng sau lại sanh tâm tham muốn đoạt tài vật đó.

Sau khi đoạt lấy, sanh tâm nghi ngờ, bèn đem tài vật cất giấu, sau lại nghĩ rằng tài vật này mình có dùng chung hay dùng riêng với chủ cũng không có gì khác biệt, bèn đem giao hoàn lại chỗ cũ, tài vật tuy đã rời bổn xứ, nhưng kẻ tôi tớ đó cũng không bị mắc tội trộm.

Lại có người đi đường bị cướp, sau đó vào làng, người trưởng làng bèn hỏi: Ông bị mất vật gì?

Chúng tôi sẽ bồi thường cho ông. Nếu như nói quá số tài vật đã bị cướp mất, để lấy vật bồi thường, thì người đi đường đó bị mắc tội trộm.

Có người phát tâm bố thí cho người khác hai tấm y, người nhận lấy một tấm, nói rằng không cần hai tấm. Nếu người cho giữ lại tấm y đó, thì bị mắc tội trộm.

Nếu có người phát tâm dự định đem phòng xá, giường chiếu, thuốc men, đồ vật cần thiết, cúng dường cho một Tỳ Kheo. Lúc đang chưa cúng dường, bổng nghe có một Tỳ Kheo khác từ phương xa đến, bèn đem tài vật đó cúng dường cho vị mới đến, vị thí chủ này bị phạm tội trộm.

Nếu như đoạt lấy tài vật của một vị Tỳ Kheo đã mệnh chung, sẽ mắc tội với ai?

Nếu như tài vật đã được làm pháp yết ma, sẽ bị mắc tội trộm với chúng tăng làm pháp yết ma, còn nếu tài vật chưa được làm pháp yết ma, sẽ bị mắc tội với mười phương tăng.

Nếu như vị Tỳ Kheo đã mệnh chung đó, lúc lâm chung dự định đem tài vật cho chỗ nào, thì người đoạt tài vật đó sẽ mắc tội với chỗ ấy. Nếu trộm đồ vật trong tháp Phật thì sẽ mắc tội với người giữ tháp.

Nếu như nước lụt làm trôi tài vật, lúa gạo, dưa trái, quần áo, đồ vật linh tinh, vớt được không mắc tội.

Nếu như hành dâm không đúng thời, không đúng chỗ, với người cùng phái hoặc nhị hình, với gái trinh, với vợ người khác, hoặc với chính mình, đều gọi là tà dâm.

Riêng ở ba châu Nam, Đông, Tây, mới mắc tội tà dâm, còn châu Bắc Cu Lô thì không có tội này.

Nếu như hành dâm với súc sanh, hoặc với thi thể bị hư hoại, hoặc những tịnh nhân trong Chùa, hoặc những kẻ bị giam cầm, những kẻ đào tẩu, hoặc với vợ của thầy, hoặc với người xuất gia, đều gọi là tà dâm.

Nếu hỏi: Người xuất gia không còn bị lệ thuộc vào người khác, nếu vậy, hành dâm với họ, thì mắc tội với ai?

Nên trả lời: Mắc tội với thân thuộc, hoặc nhà cầm quyền sở tại.

Gặp lúc thời thế ác liệt, loạn ly, hoặc bạo chúa cai trị, hoặc lúc gia đình bị khủng bố, nếu cho thê thiếp xuất gia làm ni, sau đó lại đến hành dâm với họ, sẽ mắc tội tà dâm.

Nếu hành dâm ở ba chỗ: Đường đại tiện, tiểu tiện và miệng, thì mắc tội tà dâm.

Nếu tự mình, hoặc đối phương chủ động, cùng nhau hành dâm, hoặc bên lề đường, hoặc bên cạnh tháp, miếu, hoặc nơi có đại hội, thì bị mắc tội tà dâm.

Nếu như đối phương vẫn còn được sự thủ hộ của cha mẹ, anh em, hoặc nhà cầm quyền sở tại, hoặc đối phương đã hẹn ước trước, đã hứa hôn trước, hoặc đã nhận tiền, hoặc đã nhận lời hành dâm với người khác, nếu như hành dâm với họ, sẽ mắc tội tà dâm.

Nếu hành dâm với tượng gỗ, tượng đất, tranh vẽ, hoặc với thây chết, đều phạm tội tà dâm.

Nếu bộ phận thuộc về thân mình mà tưởng là thân người khác, hoặc bộ phận thuộc về thân người khác mà tưởng là thân mình, giả sử hành dâm với nơi đó, đều phạm tội tà dâm.

Tội tà dâm có nặng, có nhẹ. Nếu do phiền não nặng thì phạm tội nặng, do phiền não nhẹ thì phạm tội nhẹ.

Dù có tâm nghi hay không nghi, hoặc dù thấy, nghe, hay, biết, hoặc dù bị hỏi đến, hay không bị hỏi đến, nếu nói trái với sự thật, thì gọi là vọng ngữ. Nếu nói những điều vô căn cứ, cũng gọi là vọng ngữ, nhưng không gọi là đầy đủ.

Nếu nói không đầu đuôi, hoặc nói không rõ ràng, hoặc nói những lời mà đối phương không hiểu, cũng gọi là vọng ngữ, nhưng không gọi là đầy đủ.

Nói những lời đâm thọc, hung ác, dù có làm tổn hại đến đối phương hay không, đều bị phạm tội. Nói những lời vô nghĩa, cũng giống như vậy.

Bảy điều vừa nêu trên: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, nói đâm thọc, nói hung ác, nói vô nghĩa, vừa là đạo, vừa là nghiệp.

Còn ba điều thuộc về tâm: Tham, sân, si, thì chỉ là nghiệp mà không phải là đạo.

Vì sao?

Vì chưa phát động đến thân khẩu, và chỉ những nghiệp thân, khẩu làm phương hại đến mình và người mới mắc tội lớn.

Hoặc có người cho rằng: Tất cả vi trần theo thứ tự an trụ, mà lại niệm niệm biến diệt.

Diệt rồi thì không trụ, nếu như không trụ, thì tác nghiệp không có, huống chi vô tác nghiệp?

Điều này không đúng!

Vì sao?

Các pháp trên thế gian, có nhân thì có quả, không nhân thì không quả. Giống như soi mặt nước hoặc soi kính thì có ảnh hiện lên, nếu không soi thì không có ảnh. Tác nghiệp cũng giống như vậy.

Từ thân mà có tác nghiệp, từ tác nghiệp mà có vô tác nghiệp, cũng giống như soi mặt nước hoặc soi kính thì có ảnh vậy. Ví như có người, nếu khởi tâm ác thì gương mặt lộ vẻ hung ác, nếu khởi tâm thiện thì vẻ mặt trở nên hiền từ.

Tác và vô tác cũng giống như vậy. Nếu nhân vì nghiệp lành mà được quả báo dung nhan hiền hậu trang nghiêm, nhân vì nghiệp ác mà bị quả báo tướng mạo hung dữ ác độc, thì tác và vô tác cũng giống như vậy.

Nếu như vì niệm niệm thường có sự biến diệt mà cho rằng không có tác và vô tác, thì như phần trên đã đề cập đến những ví dụ như đèn, dòng sông v.v... tuy niệm niệm biến diệt, do lý nhị đế, mà nói có tác và vô tác.

Vi trần, tuy rằng thứ lớp không trụ, thế nhưng cũng không phá hoại pháp thế đế. Chính vì thứ lớp của vi trần mà có tên là tác và vô tác.

Nếu như sát hại cha mẹ, hoặc A La Hán, sẽ bị mắc vô lượng tội. Tuy ấm, giới, nhập v.v... của cha, mẹ, A La Hán và các chúng sinh khác không có gì sai biệt, nhưng vì cha mẹ là ruộng báo ân, còn A La Hán là ruộng phước, cho nên giết họ sẽ bị tội nặng.

Lại như, không thể cùng một lúc nói hai chữ, hơn nữa, hai chữ đó, rốt ráo cũng không hòa hợp, không thể nói lên nghĩa của chúng, thế nhưng, tuy niệm niệm biến diệt, vẫn gọi là vọng ngữ, bởi vì các chữ nối tiếp, không thể phá hoại đạo lý thế tục. Lại như bắn tên, tuy niệm niệm biến diệt, nhân vì thế lực của thân nghiệp, làm cho mũi tên bay đến mục tiêu, tác và vô tác, cũng giống như vậy.

Lại như, nhảy múa để tự vui, tuy niệm niệm biến diệt, nhân vì thế lực của thân nghiệp, cho nên thân thể có thể chuyển động, tác và vô tác, cũng giống như vậy. Lại giống như xoay vòng lửa, tuy niệm niệm biến diệt, nhân vì thế lực của thân nghiệp, cho nên lửa tạo thành vòng tròn. 

Như việc tạo nghiệp, lúc phát khởi, lúc chuẩn bị, lúc hành động, lúc nói năng, tâm niệm đều khác biệt, nhân vì các duyên hòa hợp với nhau nên gọi là tác nghiệp, và vì nhân duyên tác nghiệp mà sinh khởi vô tác nghiệp.

Lại như, nhân vì uy nghi khác biệt, mà tâm thái cũng khác biệt, và nhân vì một khi đã huân tập vào tâm thì không bị biến hoại, cho nên gọi là vô tác.

Lại như, nếu thân làm thiện, mà miệng lại nói lời ác, thì người đó sẽ bị quả báo vừa thiện vừa ác. Nếu như nghiệp thiện của thân có tác nghiệp và vô tác nghiệp, còn nghiệp ác của miệng chỉ có tác nghiệp, không có vô tác nghiệp, nên biết người đó chỉ được quả báo lành, mà không bị quả báo ác.

Cho nên trong Kinh nói bảy nghiệp của thân và miệng có hai loại tác và vô tác. Giống như người bị bệnh nặng, cần phải hòa nhiều loại thuốc để trị bệnh, nếu thiếu một loại thuốc, ắt không thể trị.

Vì sao?

Vì bị bệnh nặng. Tất cả chúng sinh cũng giống như vậy, đầy đủ tất cả ác nghiệp, cần phải có nhiều giới mới có thể trị, nếu thiếu một giới, ắt không thể trị.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần