Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai - Phẩm Dục - Tập Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM HAI

PHẨM DỤC  

TẬP SÁU  

Lưới trùm thì giống như người ta dùng lưới giăng bắt chim, hay dùng bẫy để bắt nai, hay đào hố sâu bắt hổ. Nếu chim thú nào gặp các nạn ấy thì không thể nào thoát được.

Chúng sinh cũng như thế. Khi họ bị lưới dục phủ trùm thì không còn thấy thiện, ác. Ý thường ham thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi bị ái quấn chặt, thì không thể lìa bỏ. Những ai bị rơi vào lưới ái thì chánh đạo hư hoại, không đến chỗ rốt ráo.

Cho nên nói: Lưới ái bao trùm như dây leo quấn chằng chịt vào cây tới ngọn, làm cho cây khô héo. Ái cũng như thế. Nó tràn ngập thân người từ đầu đến chân, không chừa trống chỗ nào. Như người bị lọt xuống hầm phân thì cả than mình họ đều bị dính dơ.

Người hiểu biết muốn cứu giúp họ, thì y nhìn khắp coi có chỗ nào còn sạch rồi kéo người đó lên. Nếu kẻ ấy không còn chỗ nào sạch thì cũng có thể tìm cách khác kéo y lên được. Nhưng nếu người nào bị tâm ái tràn khắp thân thể thì không thể chữa trị được.

Cho nên nói: Cành nhánh ái tăng thêm. Về đói khát, nếu người đời đói khát thì dùng nước uống cứu mạng sống hoặc họ ăn rễ cây, trái, hoặc dùng hơi thở mà phục hồi, hoặc dùng cây cỏ, thuốc, Thần Chú giúp họ kéo dài tuổi thọ. Nhưng cái tâm ái này đói khát thì dù uống hết nước bốn biển đi nữa cũng không thể làm cho cơn khát ái nguôi đi được, dù chỉ một chút.

Cho nên nói: Khát ái rất khó cứu khỏi. Ái khổ là chỉ cho ái chưa được dứt hết. Nó luôn luôn tăng thêm các nguồn khổ.

Cho nên nói:

Càng chịu khổ thêm nhiều.

Nhổ cây không tận gốc

Thì nó vẫn mọc lại

Dứt ái không tận gốc

Thì khổ cứ sinh mãi.

Thuở ấy, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ. Lúc ấy, có người giữ vườn đang coi vườn cho quan. Ngay giữa vườn có một loài cây rất độc. Nếu có chàng trai, cô gái nào vào vườn ngắm cảnh dạo chơi mà đến nghỉ dưới gốc cây ấy thì bị nhức đầu như muốn bể ra, hoặc đau thắt lưng, hoặc có khi chết liền dưới gốc cây.

Người giữ vườn biết nó là cây độc, lại thấy nhiều người chết vì nó, nên bèn lấy búa cán dài hơn trượng, đứng ở đằng xa mà chặt nó. Nhưng chưa đầy mười ngày sau thì cây ấy lại mọc lên như cũ, thân lên cao, cành lá sum suê, ai nhìn thấy cũng đều vui thích. Một số người không biết, chưa từng bị nạn bởi nó gây ra nên cùng đến dưới cây nghỉ mát, nhưng bóng chưa xế thì họ đã bị tai ương.

Ngày khác, người giữ vườn lại vác búa đến đốn cây, nhưng chưa bao lâu, cây lại mọc lên như cũ, càng sum suê tốt tươi hơn nhiều. Cứ như thế đốn cây rồi cây cứ mọc lên như cũ. Họ hàng, vợ con người giữ vườn vì ham thích bóng mát cây ấy nên đều bị chết. Người giữ vườn trơ trọi một mình, đêm ngày buồn rầu than thở. Rồi đi đường anh gặp một người hiểu biết, anh liền trình bày hết nỗi cay đắng khổ não của mình.

Bấy giờ, người hiểu biết bảo anh ta rằng: Tất cả nỗi đau khổ ấy là chính do anh gây ra. Anh nên biết rằng, muốn ngăn lũ thì người ta phải đắp đê cho cao, muốn đốn cây cho chết thì phải đào tận gốc.

Việc làm của anh chỉ khiến cho nó mọc thêm, đâu gọi là đốn cây?

Bây giờ, anh phải mau trở về đào bỏ gốc rễ của nó đi. Lúc đó, người giữ vườn tâm ý mê loạn lại sợ chết đến.

Anh nghĩ: Nếu khi ta chết rồi thì quan sẽ cắt người khác đến đó giữ vườn, dòng họ nhà ta vốn đã tuyệt diệt giờ lại không còn ai kế thừa ta. Vậy, chi bằng lén trốn đi xuất gia học đạo. Nghĩ rồi, anh liền đến Tinh Xá Kỳ Hoàn nước Xá Vệ, đến xin các Đạo Nhân làm Sa Môn.

Nhờ căn lành gieo trồng kiếp trước nên anh giữ vườn kia tâm ý trở nên thuần thục, đáng được cho vào sống đời phạm hạnh.

Khi Đức Phật trở về, Ngài thấy vị Tỳ Kheo này liền ở trước đại chúng nói bài kệ:

Nhổ cây không tận gốc

Thì nó vẫn mọc lại

Dứt ái không tận gốc

Thì khổ cứ sinh mãi.

Khi nghe bài kệ ấy, vị Tỳ Kheo kia nhớ lại những việc đã qua, liền tỉnh ngộ tự tâm. Bên trong thầy tự quở trách mình, suy tư hoạn nạn của thân bốn đại nhơ nhớp, nhớ lại cây độc kia, bao lần đốn chặt bao lần nó lại mọc ra, không chết hẳn.

Nay than bốn đại này so với cây ấy có khác gì. Rễ ái dục rất vững chắc, nếu không đào bỏ thì cành lá không chết hẳn, sẽ phải chịu sinh, già, bệnh, chết mãi thôi, chết chỗ này sinh chỗ khác, chết nơi kia sinh nơi đây xoay vần mãi như vậy, không bao giờ ngừng nghỉ. Như cây độc kia chưa nhổ tận gốc, nên nó còn hại mọi người. Kết sử ái dục này cũng như vậy, nó giết hại mạng sống còn làm tổn hại bản tính trí tuệ.

Bấy giờ, thầy Tỳ Kheo liền quán xét kỹ thân năm ấm này, từ đầu đến chân, không có chỗ nào đáng ưa thích, liền chứng quả tu số Đà Hàm, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm và quả A La Hán, ngay tại chỗ ngồi, chứng được sáu phép thần thông.

Lòng cảm kích vô hạn, nên ở trước đại chúng, ba lần thầy tự nói: Đáng mừng thay, đạo không xa tí nào! Nương nhờ ân đức Bậc Thánh mà con dứt hết phiền não.

Vị ấy liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đi quanh Đức Phật ba vòng, rồi trở lại chỗ ngồi cũ mà hiện mười tám thứ thần biến và nhập Niết Bàn.

Cũng như người vót tên

Lại tự bị tên hại

Tên bên trong cũng vậy

Tên ái hại chúng sinh.

Thuở ấy, Đức Phật ngự trong vườn Cam Lê, nước Ma Kiệt.

Lúc ấy, trong hang Thạch Thất ở phía Bắc Kinh Thành, có rất nhiều thợ săn vào núi săn bắn. Họ giăng lưới khắp nơi, giết hại vô số hươu nai, rồi trở về trên núi.

Lúc bấy giờ, có một con nai rơi vào bẫy, nó kêu lên thật lớn.

Nghe vậy đám thợ săn chạy đến, cả đám rơi vào bẫy, bị thương nhiều không kể xiết, ai không chết, cũng mang thương tích nặng, đau nhức không thể diễn tả. Họ cùng dìu đỡ những người nặng nhất về lều. Họ tìm thuốc cao mỡ bôi chữa trị vết thương. Bà con quen biết cùng đến chôn cất tử tế những xác được đưa về, xong xuôi mới trở về nhà mình.

Khoảng mười ngày sau, những người bị thương biết các vết thương đã khép miệng, nhưng ai cũng đều chán sự việc đi săn, nhờ đời trước đã gieo trồng các nghiệp lành, nên họ liền bỏ nhà, đi học đạo, làm Sa Môn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói pháp cho vô số trăm ngàn người vây xung quanh Ngài nghe.

Ngài muốn nhổ bỏ gốc cũ cho những người này bèn chỉ bày, dạy răn cho họ tu các công đức, để thoát hẳn sinh tử, thường được hưởng phước, nên ở trước đại chúng, Ngài liền nói kệ:

Cũng như người vót tên

Lại tự bị tên hại

Tên bên trong cũng vậy

Tên ái hại chúng sinh.

Lúc ấy những người thợ săn nghĩ: Tuy đã thành Sa Môn nhưng chúng ta không tự biết việc vót tên lại tự bị tên hại. Hôm nay, Như Lai làm sáng tỏ việc chúng ta là đám thợ săn bị chính tên mình vót trở lại tự hại, nên rất hổ thẹn, tự ăn năn lỗi cũ.

Rồi ở nơi vắng vẻ, họ suy tư chánh quán, nhiếp tâm không cho tán loạn, xứng đáng là con nhà dòng dõi, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, tu phạm hạnh vô thượng, tự thân chứng đắc nên tự vui mừng, sinh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn tái sinh, biết rõ như thật.

Lúc ấy các thầy Tỳ Kheo đều chứng quả A La Hán, được sáu thứ thần thông, không còn gì ngăn ngại, nên nói bài kệ này:

Phải giác biết được rằng,

Khổ ái tạo đời này

Không dục, không ý tưởng

Tỳ Kheo chuyên nghĩ độ.

Phải giác biết được rằng: Ái đứng đầu mọi căn bệnh, giống như thành quách dân chúng nhóm họp về đó, nương ở trên đất đai mà sống.

Tại sao gọi ái là đứng đầu mọi căn bệnh?

Như lời Phật dạy: Ở địa ngục chịu khổ khó thể tính lường, đều do ái gây nên. Ở địa ngục chịu các khổ não đều do bệnh ái, những kẻ sát sinh cũng bởi ái thúc giục. Những kẻ ăn trộm, dâm dật, nói láo làm mười việc không lành cũng như vậy, đều do tâm ái mà tạo ra các điều ác. Gây ra đủ mười điều ác thì chết đọa vào địa ngục với mười ba thứ lửa thiêu đốt thân mình.

Mười ba thứ lửa là: Có hai núi lửa từ phía trước chui vào bụng rồi xuyên qua xương sống. Lại có hai núi lửa, từ phía sau chui vào xương sống, rồi chui ra khỏi bụng. Lại có hai núi lửa từ hông trái chui qua hông phải rồi ra ngoài. Lại có hai núi lửa, từ hông phải chui qua hông trái rồi ra ngoài. Lại có hai núi lửa, từ dưới chui lên rồi ra ngoài. Lại có hai núi lửa từ trên chui xuống rồi ra ngoài.

Còn núi lửa thứ mười ba là gì?

Núi này do thân tạo ra, đó chính là núi khát ái. Mười hai núi lửa kia, dù đau đớn, nhưng có thể chịu đựng nổi, còn riêng núi lửa khát ái do thân mình tạo ra thì không thể trị liệu được.

Như trong Kinh chép: Ngục Tốt A Bàng hỏi những người tội nặng rằng: Các ngươi từ đâu đến đây?

Người tội đáp: Chúng tôi đói quá nên không biết từ đâu đến. Lúc ấy ngục tốt lấy những hòn sắt nóng buộc các người tội phải nuốt trôi.

Sau đó ngục tốt lại hỏi người tội rằng: Các ngươi từ đâu đến đây?

Đáp: Chúng tôi quá khát, nên cũng không biết từ đâu đến. Bấy giờ ngục tốt đè người tội nằm ngửa ra, múc đổ nước đồng sôi vào miệng người tội, đốt cháy cả mồm, cổ họng, rồi chảy xuống dưới. Tóm lại, ở địa ngục có muôn thứ đau đớn, khổ não. Đọa làm súc sanh cũng chịu vô số khổ não.

Súc sanh chịu khổ ra sao?

Như trong Kinh chép: Bấy giờ thầy Tỳ Kheo bị đọa làm súc sanh, chịu các khổ não.

Các Tỳ Kheo nên biết: Nếu có chúng sinh đọa làm súc sanh, thì sinh ra trong sự mờ mịt, lớn lên trong sự mờ mịt, chết đi cũng trong sự mờ mịt.

Những việc ấy là sao?

Ấy là sâu trùng dưới đất do đời trước ham dâm dục, thân, miệng, ý làm ác, nên sau khi chết đọa làm trùng sâu dưới đất.

Cho nên nói: Sinh ra trong sự mờ mịt, lớn lên trong sự mờ mịt, chết đi cũng trong sự mờ mịt. Này các Tỳ Kheo, chúng sinh bị đọa làm súc sanh rất đau khổ khó chịu đựng nổi. Hoặc có chúng sinh nương vào bốn đại sinh ra, lớn lên bằng bốn đại, qua đời bằng bốn đại.

Đó là loài nào?

Đó là loài bào trùng, đều do đời trước ham đắm ái vị, thân, miệng, ý tạo ác, chết đọa làm loài bào trùng. Nương bốn đại sinh ra, lớn lên bằng bốn đại, chết đi bằng bốn đại. Này các Tỳ Kheo, loài súc sanh rất đau khổ khó có thể chịu nổi.

Các Tỳ Kheo nên biết, lại có chúng sinh bị đọa làm chúng sinh, hễ nghe mùi thối của phân dãi thì chúng chạy đến, nói rằng chúng ra ăn đồ ăn uống này, vì những đồ ăn uống này là loài gà, vịt, heo, chó, lừa, ngựa, chồn, chim, quạ…

Các Tỳ Kheo nên biết, loài ngạ quỷ rất khổ.

Khổ của ngạ quỷ như thế nào?

Hoặc có quỷ đói ăn nuốt râu tóc hay lông lá, trên thân người, hoặc ăn răng hay mong tay, móng chân, hay ăn chất bẩn bám trên thân, da non, da dày, cho đến gần xương, tim, lá lách, thận, gan, mật, ruột già, ruột non, dạ dày, phân, óc, tủy, nước mắt, mồ hôi, đàm dãi, nước mũi, máu mũ, mỡ, mật đắng, nước tiểu.

Những loài quỷ đói ấy phải ăn như thế, chịu nhiều đau khổ, đều bởi thân đời trước ham thích ái vị, tham lam bỏn sẻn, ăn một mình.

Nếu có cho người khác ăn thì mắng chửi, nguyền rủa rằng: Chúng bây ăn đồ của tao như ăn máu mủ, phẩn dãi. Thế nên sau này đọa làm ngạ quỷ phải ăn những đồ dơ như thế.

Lại có loài ngạ quỷ lúc còn làm người giành ăn một mình không biết mắc cỡ, không bố thí cho ai dù chỉ một hạt gạo. Nếu thấy người khác cho thì đến ngăn cản. Do đó, sau làm ngạ quỷ suốt trong thời gian dài, tai không hề nghe hai chữ ăn uống, huống gì là được ăn. Khổ của loài ngạ quỷ này, không thể nói hết. Ba đường ác ấy chịu khổ vô lượng.

Đó là bởi đời trước tâm ái quá nặng, gieo nhân cho những khổ ấy, cho nên Đức Phật nói: Ái là đầu mối các căn bệnh.

Khổ ái tạo đời này: Không có dục thì không có tưởng, đã dứt bỏ ái dục, không còn sót lại chút nào hết, như ói mửa hết, xả bỏ hết thì không còn cội gốc của các bệnh khổ não.

Cho nên nói: Không có dục thì không có tưởng.

Tỳ Kheo chuyên nghĩ độ: Tỳ Kheo chuyên tâm, từ đầu không rối loạn, lìa bờ bến đến chỗ không bờ bến. Từ bờ bên này sang bờ bên kia mà vào cảnh giới Niết Bàn, mát mẻ không còn nóng bức, tất cả tâm luyến ái đều dứt hết, không còn sinh khởi.

Cho nên nói: Tỳ Kheo chuyên nghĩ độ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần