Phật Thuyết Kinh Dần đủ Tất Cả Trí đức - Phẩm Một - Trụ Duyệt Dự Sơ Phát ý - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH DẦN ĐỦ TẤT CẢ TRÍ ĐỨC
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM MỘT
TRỤ DUYỆT DỰ SƠ PHÁT Ý
TẬP BA
Thứ nhất của duyệt dự là suy nghĩ về Phật Pháp, mới phát tâm trụ địa duyệt dự là nghĩ đến bản nghiệp của Bồ Tát Đại Sĩ, nghĩ đến hạnh nguyện của Bồ Tát, nghĩ đến sáu Ba la mật thanh tịnh không cùng tận, nghĩ đến đặc thù cần khai mở của Bồ Tát, là nghĩ đến đạo vi diệu không gì sánh cùng, là nghĩ đến việc đem đạo nghĩa làm lợi ích cho chúng sinh, là tâm phải siêng năng hiểu pháp sâu xa, nghĩ đến giáo pháp của Như Lai là chí chân, nghĩ đến việc dùng pháp ấy để giáo hóa chúng sinh.
Mới phát tâm trụ duyệt dư là nghĩ đến tịnh nghiệp tinh tấn, nhập trí tuệ Như Lai của Bồ Tát, luôn suy xét kịp thời những sự chỉ dạy, là được độ thoát.
Nên nói đến cảnh giới mà chúng sinh ngưỡng mộ, ước mong sẽ thâm nhập sự bình đẳng của Chư Phật, để được ra khỏi nơi ngu si, gần gũi Đạo Tràng, dứt trừ khổ đau trong đường ác. Luôn coi trọng việc giáo hóa chúng sinh, để được gặp Như Lai chí chân, thành tựu được đầy đủ cảnh giới Như Lai, thấy được hạnh nghiệp bình đẳng trong các định của Bồ Tát. Đó là duyệt dự. Dứt trừ hẳn tất cả lo sợ, lông tóc áo quần không dựng ngược, là duyệt dự.
Vì sao?
Phật Tử! Các Bồ Tát học trụ đại duyệt dự, là phải được ở trong địa của đạo Bồ Tát. Nhờ sống trong địa của đạo Bồ Tát, nên vĩnh viễn không còn lo sợ, không còn bị tai nạn, sống an vui không sợ tuổi thọ, không sợ thế tục, không sự cõi ác, vào đâu cũng không bị người ganh ghét làm hại, vĩnh viễn dứt trừ mọi nỗi kinh sợ.
Vì sao?
Vì không còn tư tưởng nhân ngã. Ngay thân mình không còn tham tiếc huống gì lại tham mến những xấu tốt do nghiệp tạo ra! Không sợ chết, không mong cầu may rủi, chỉ thương xót chúng sinh đã tạo nghiệp không cùng, phải cứu chúng sinh đói khổ tham lam không biết đạo.
Đó là không sợ thế tục, để thành tựu sự sáng suốt của đạo. Không lo cho thân mình, cũng không sợ bị mất thân. Không tưởng nhân ngã, không sợ sẽ bị chết. Dù phải bỏ thân này, vẫn luôn hành hạnh Bồ Tát. Không rời Chư Phật nên không sợ cõi ác. Quán sát thế gian, tâm đạo là không gì sánh bằng. Chí tánh nhân từ hòa ái thì không ai hơn được.
Vì vậy, vào đâu, cũng không e ngại, không lo sợ luôn luôn bình tĩnh. Phật Tử nên biết! Bồ Tát Đại Sĩ phải đầy đủ tâm từ, không làm tổn hại, căn bản là tâm phải luôn thanh tịnh, luôn siêng năng tinh tấn làm nhiều điều có ích, tích lũy cái gốc phước đức.
Đức Phật có dạy: Nhờ vững tâm tin, oai thần đầy đủ, nên được vui vẻ, đem thanh tịnh đến những kẻ không tin. Dùng tâm tin sâu sắc mà thực hành tâm từ bi rộng lớn, làm cho tâm không chán sợ nạn sinh tử, cho đến hỗ thẹn cũng làm cho trang nghiêm. Dù ở đâu, tâm luôn nhu hòa nhẫn nhục, luôn đem vật thực cúng dường Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngày đêm tinh tấn siêng năng tu tập, không chán việc tụng đọc giảng thuyết, tích lũy công đức, học tập theo bạn lành, vui bằng niềm vui của pháp, luôn cầu học rộng không lười mỏi, nghe pháp thì tư duy. Đã tư duy nên không đắm trước, không mong cầu cơm áo, bỏ lợi dưỡng không tham tiếc, trừ hẳn tâm ân ái.
Chỉ mong cầu Tam bảo, không phút giây nào bỏ chánh hạnh, siêng tu mến thích địa nhất thiết trí, mười lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Như Lai, luôn thực hành không cùng sáu Ba la mật, trừ bỏ hư ngụy, không dua nịnh, làm và nói hợp nhau, ý nghĩ không trái lời nói, đi đến đâu đều tùy thuận mà nói năng hành động, không làm hư hạt giống Phật, luôn nhớ giới cấm của Bồ Tát, tâm nhất thiết trí không hề dao động. Ví như Thái Sơn không thể nghiêng đổ.
Không tham vui thú thế gian, phải mong vượt nghiệp thế tục, phải biết giáo hóa những điều chưa nghe. Phải học đạo pháp không hề chán mỏi, tâm luôn chuyên cần, cầu việc thù thắng. Như vậy là Phật Tử đã thanh tịnh được nghiệp thanh tịnh đạo pháp Bồ Tát, được trụ vững trong địa duyệt dự.
Đức Thế Tôn có dạy: Người an trụ nơi địa duyệt dự là người thành tựu đạo rộng lớn không cùng, vững chắc của Bồ Tát, là cảnh giới mẫu không giới hạn để khoác áo giáp thệ nguyện rộng lớn. Lại có mười pháp.
Mười pháp đó là gì?
Tuyên thuyết rộng rãi không cùng tận, âm thanh hòa nhã vang xa không thiếu chỗ nào, không sao ví dụ được. Cúng dường tất cả báu vật kỳ lạ cho Chư Phật, tin sâu vào nghiệp vi diệu thanh tịnh, pháp giới bình thản, chí nguyện quay về chỗ trống không, thông suốt tất cả cho đến tận vị lai, tất cả đều không vọng tưởng, không mong cầu bất cứ điều gì.
Làm cho Phật Đạo hưng thịnh, không nghĩ đến niềm vui, việc phụng sự cúng dường không cùng. Chí khí đặt ở nguyện lớn, nhớ nghĩ đến giáo pháp mà các Đức Phật giảng dạy, giữ gìn con mắt pháp. Hộ trì hạnh nghiệp của Chư Phật Bồ Tát, không trái lời dạy, tất cả bình đẳng giác ngộ những lời giáo huấn.
Đầy đủ các Pháp trên, thì được sinh lên Cõi Trời Đâu Suất, từ Cõi Trời sinh xuống nhân gian vào ở trong thai mẹ. Khỏi bụng mẹ đi bảy bước, đưa tay, tự ca ngợi là bậc tối cao trong ba cõi, Đế Thích, Phạm Thiên cúi lạy, các rồng phun nước tắm, học rộng hiểu nhiều, du ngoạn gặp những cảnh già, bệnh, chết, bỏ nhà vào núi tu đạo.
Thành Phật hàng phục ma, Đế Thích, Phạm thiên thỉnh cầu, chuyển bánh xe pháp lớn, hiện Niết Bàn lớn, cúng dường xá lợi, tuyên thuyết hóa độ, chỉ rõ thật nghĩa của Kinh Pháp, cùng lúc đạt Bất thoái chuyển pháp giới rộng lớn không thể lường được, ở trong chỗ trống không mà thông suốt đến cả vị lai.
Đối với tất cả niệm mà vô tưởng niệm. Từ vô số kiếp, đã từng thành Phật, vững tin không mỏi mệt, cùng nhau qua lại hòa đồng. Tuyên thuyết âm nghĩa đối với hạnh nguyện sâu rộng. Đối với tất cả hành nguyện của Bồ Tát phát hoằng thệ không số lượng, không cùng tận, thọ trì gìn giữ các Ba la mật. Sống trong đạo thanh tịnh, suy xét âm vang các chủng loại có tướng không tướng.
Gặp gỡ xa lìa, hữu vi, vô vi. Bậc thầy đầu tiên của các Bồ Tát. Trụ trong đạo chân diệu ấy sẽ được giảng thuyết từng câu từng chương các Ba la mật. Sẽ được chỉ dạy tu hành để siêng năng tu hạnh chân chánh để không còn chỗ sinh ra. Hình thành sự phát tâm để có thể thành tựu đầy đủ các pháp.
Hiểu hết đầy đủ cảnh giới của chúng sinh: Có sắc tướng hay không có sắc tướng, có tưởng, không tưởng. Loài sống dưới nước hay trên mặt đất, cùng tất cả các loài thọ hình trong ba cõi, sáu nẻo, có nơi ở, có hình dáng, không có hình dáng, tất cả đều được phân biệt để giáo hóa, làm cho chúng thâm nhập Phật Pháp, đoạn trừ chỗ sinh ra ở hết thảy hữu vi.
Kiến lập và thành tựu được nhất thiết trí. Đó chính là pháp giới rộng lớn nhưng lại ở trong cõi trống không. Tâm có thể hiểu rõ nguồn gốc đời sau, chúng sinh sẽ sống bằng vọng tưởng bởi nghiệp hữu vi, càng tin sâu không mệt mỏi. Diễn thuyết âm vang cho đến hạnh nghiệp thệ nguyện không cùng, cảnh giới chúng sinh đó, tất cả đều hiểu rõ.
Đạo đời đều rõ, không chỗ nào là không thông. Thật khó nói hết cảnh giới rộng, hẹp, thô, tế, lớn, nhỏ đo lường được hay không đo lường được của Chư Phật. Đưa tất cả cái mênh mông sâu xa đó vào chỗ bình đẳng. Đã vào bình đẳng rồi, tất hiểu rõ các nguồn gốc, lưới trói buộc như cửa có then cài.
Nhập trong mười phương, dùng trí tuệ quán sát khắp nơi, hiểu rõ nguồn gốc trống không của pháp giới, biết rõ việc nhập vào thệ nguyện rộng lớn không cùng. Lại xem hết thảy các cõi nước là một cõi nước và ngược lại xem một cõi nước là tất cả cõi nước tất cả đều ở trong sự bình đẳng, thanh tịnh, không nhơ uế, có ánh sáng chiếu soi vô số Cõi Phật, trang nghiêm các cõi nước, để không còn chút bụi nhơ.
Phân biệt rõ chỗ rốt ráo của văn tự. Đạo pháp Thánh tuệ rất khó giới hạn và đo lường được. Nguyện của chúng sinh thì nhiều, phải hiện ra cảnh giới vi diệu của Chư Phật, rồi tùy thuận vào sự phát triển bản hạnh của chúng sinh mà hiện hóa.
Quán sát pháp giới rộng lớn như hư không, không bờ mé, xét đến tận gốc của vọng niệm, hội họp tính toán không dừng nghỉ, không tin, không tùy thuận vào nghiệp tà hạnh, tu tập thanh tịnh, mặc áo giáp tạo thệ nguyện rộng lớn, để giáo hóa những kẻ chưa được nghe, làm cho các Bồ Tát nhập vào tánh hòa nhã tịch tĩnh. Chí thành thực hiện việc tích lũy công đức.
Trước hết dùng duyên tinh tấn khuyến khích, giáo hóa cho các Bồ Tát. Chưa từng bỏ hạnh nghiệp của Bồ Tát, thứ đến là hiểu ý bày ra sự hưng thịnh của Phật Pháp, tự phát tâm suy xét giáo pháp Như Lai để không trái nghịch, đạt được thần thông, đi khắp các cõi nước. Thánh tuệ đó rộng lớn khó lường, thực hành hạnh nghiệp Bồ Tát, đi khắp pháp giới rộng lớn không bờ mé đến tận vị lai.
Tính đếm được số Phật và đại chúng. Số lượng hạnh nghiệp ấy không hủy hoại được, thể nhập Thánh trí ngôn hạnh phát triển rõ ràng, thệ nguyện rộng lớn không cùng để hành đạo Bồ Tát, tâm được biến chuyển theo bánh xe pháp bất thoái, thân, khẩu, ý không hư dối.
Thích được gặp Phật để nghe giáo pháp Kinh Điển, rồi tuyên thuyết cho Thánh chúng, giảng rõ trí nghiệp, thích phát duyệt dự để tiêu trừ được khổ nhọc, đạt chí tánh chân thật, như lương y chữa bệnh cho chúng sinh. Độ cho hết thảy chúng sinh tu hạnh Bồ Tát, vì thế nên nói pháp giới rộng lớn như Hư Không, không bờ mé.
Cho đến vị lai, biết rõ hạnh nghiệp, thiện ác của chúng sinh trong vô số kiếp, thành tựu đạo vô thượng chánh chân ở các Cõi Phật, thành bậc Tối Chánh Giác, nhập vào tất cả các lỗ chân lông vi tế trên cơ thể. Dù ở đâu, đều ngồi dưới gốc cây Phật, chuyển bánh xe pháp, thị hiện đại diệt độ, tu cảnh giới lớn, tuyên thuyết hạnh nghiệp trí tuệ của Phật.
Tùy ở nơi cảnh giới của chúng sinh, tùy hạnh nghiệp căn bản của chúng sinh mà hiện thân Phật, khai hóa vô số, trừ nghiệp nhơ uế, đạt thành Phật Đạo, tất cả chúng sinh đều hạ mình cung kính tùy thuận. Âm vang vừa phát ra đã làm vui lòng tánh chúng sinh.
Thị hiện cảnh Niết Bàn mà không hủy mười Lực, dùng tâm sáng suốt tuyên thuyết ban bố những pháp tạng, đầy đủ oai thần pháp tuệ, hạnh nghiệp sáu thần thông, đi khắp cảnh giới của Chư Phật ở mười phương, nên nói pháp giới rộng lớn không bờ mé như hư không. Thấu suốt vô số kiếp vị lai, sẽ thành Phật Đạo, mặc giáp thần thông, thệ nguyện rộng lớn.
Này Phật Tử! Đó là mười nguyện của Bồ Tát. Nhờ gần gũi đầy đủ mười nguyện, làm cho vô số chúng Bồ Tát dược khen ngợi, luôn nghĩ đến duyệt dự trụ trong địa Bồ Tát, tùy thời cơ để khai hóa.
Đức Phật lại dạy: Người học đạo Bồ Tát, nên thành tựu được nguyện này. Lại có mười việc không thể nói hết được.
Mười việc đó là gì?
Đó là cảnh giới chúng sinh không thể nói hết. Cảnh giới Chư Phật không thể cùng tận. Cảnh giới hư không, không thể lường. Suy nghĩ về cảnh giới pháp không thể trình bày. Cảnh giới vô vi không có giới hạn.
Cảnh giới Chư Phật không thể tìm đến chỗ rốt ráo. Cảnh giới Như Lai không bờ mé. Tâm của nhân duyên không có giới hạn. Nguồn gốc của tuệ hạnh không thể có được bến bờ. Cảnh giới có thể tiến thoái của Chư Phật, pháp tuệ luân chuyển không thể nói hết được. Đó là mười việc. Cảnh giới chúng sinh không thể rốt ráo để thành tựu nguyện rộng lớn, mười sự việc này không thể tìm đến chỗ cùng tận.
Các cảnh giới Hư Không, pháp giới vô vi, Phật Như Lai, tuệ hành của tâm, pháp chuyển của Thế Giới, sự thành đạt tuệ tấn, nguyện rộng lớn ấy cũng cùng tận đến chỗ không cùng tận. Cảnh giới chúng sinh cũng không thể cùng tận, vì không thể cùng tận cái gốc của công đức, nên được rốt ráo thành tựu đạo tuệ.
Vì cái gốc công đức cực tận, nên mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn không bị hao tổn. Tâm vi diệu, luôn hòa nhã, nhân từ, luôn thành kính, vững tin, chất trực. Nhờ vững tin pháp giáo hóa của Như Lai, nhập vào thệ nguyện hiểu biết bình đẳng. Lại tin ưa các pháp Ba la mật không cùng.
Tin được nhập vào nghiệp thù thắng Địa của đạo, tin mười loại lực khai hóa được mười phương, tin bốn Vô sở úy, bốn Sự. Độc hành trong ba cõi mà không cần bảo vệ. Tin thật nghĩa siêu tuyệt của mười tám pháp bất cộng của Phật, không gì sánh bằng.
Tin Phật Pháp không thể nghĩ bàn. Tin cảnh giới Như Lai không cùng tột. Tuyên thuyết Phật Pháp không bao giờ hết. Tin nhập được vào đạo nghiệp Vô thượng của Như Lai. Tin các hạnh Bồ Tát là bình đẳng không thiên lệch. Trụ ở Như Lai, tuyên thuyết giáo pháp.
Suy nghĩ về đạo pháp Như Lai sâu xa, vi diệu, cao tột, tịch tĩnh không giới hạn, mênh mông khó lường, trống không thanh tịnh không ngằn mé, không tướng, tịch diệt, không đắm trước, rộng lớn không cùng tột, như đi vào chỗ vô biên không cùng. Đó là những cái khó của Phật Pháp, ai có thể lường được! Hàng phàm phu, điên đảo, tà vạy, không thể sửa đổi, chỉ nghĩ đến sự tối tăm, tìm cầu việc vô ích.
Tâm ý không thích, dạo chơi trong trần lao, tìm cầu trong lưới ân ái, trói buộc trong sự dua nịnh, tâm hạnh hư dối, tham lam, keo kiệt, ganh ghét nhau, thích qua lại trong sinh tử, ôm giữ ba độc, bụi nhơ tham, sân, si luân chuyển không cùng, ngọn lửa sân hận tổn hại trong tâm luôn cháy bùng, ở trong nghiệp điên đảo tạo ra những tai họa và tội lỗi, các lậu vô minh, ân ái luôn có ở trong tâm, trói buộc ý thức.
Làm trôi lăn trong ách khổ não của ba cõi, đổi thay xuôi ngược trong đó không bao giờ ngừng, rồi cùng với danh sắc đều do tướng sinh ra, đã có danh sắc thì tăng trưởng sự sinh khởi. Nên có sáu nhập như làng xóm của các xứ. Vì có sáu nhập lưu chuyển hòa hợp thành xúc, nên phát sinh thọ, nuôi lớn nên thành ái.
Thích thành tựu ái nên đưa đến sinh. Vì có sinh, nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Tâm luôn buồn bậc mới tạo thành tai họa lớn. Xét chúng sinh, đều do đây mà có thân năm ấm khổ não. Nếu bỏ ngã sở, tự suy xét thân mình do vô minh mà có. Ví như cây cỏ, ngói, gạch, tường, vách, có hình dáng nhưng thật không danh tự.
Như vậy, phải giải thoát năm ấm danh sắc ở thân, để không còn sáu mươi hai tà kiến nghi hoặc, nhân đó mà thành tựu tâm thương rộng lớn vô hạn, chúng ta phải thực hành, bảo vệ hạnh nguyện này, chí luôn đặt vững trong Đạo Địa an ổn, đạt được Thánh tuệ đại Từ. Bồ Tát phải có đủ từ tâm như vậy. Vì thế, Phật Tử phải chí thành nhân từ, hòa nhã, thuận theo chân chánh.
Lúc mới phát tâm, phải bỏ sự mong cầu lợi dưỡng đã tham tiếc từ lâu, tu nghiệp rộng lớn, tâm luôn thích bố thí những vật mình có như: Châu báu, kho tàng vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, châu minh nguyệt, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ngọc quý anh lạc, ngọc dao quý lạ, voi ngựa, xe cộ, nô bộc hầu hạ, quyến thuộc xa gần.
Tất cả đem cho khắp mà không hề tham tiếc, còn có thể đem cho cả đất nước, thành ấp, xóm làng, hoa vườn, ao đầm, quả quý, vợ con nam nữ và cả những thứ quý nhất của mình như: Đầu, mắt, xương, thịt, tủy, não, tay chân… đem hết mọi thứ có đó, không chút mến tiếc, vui vẻ bố thí, cúng dường cho người nghèo thiếu, để nhập vào đạo lớn sáng suốt vô cùng của Phật. Đó gọi là được trụ trong Đạo Địa thứ nhất.
Thành tựu hạnh bố thí lớn lao, chí tánh như vậy, thực hành từ bi, ban an vui cho nhân nghĩa để cứu khổ.
Vào trong dòng đời cứu độ những kẻ ưa cầu lợi lộc, cùng tùy thuận theo chúng sinh, chưa hề có tâm chán ghét, tâm không mệt mỏi. Siêng năng học Kinh Pháp vi diệu, thông đạt các Kinh, hiểu rõ nghiệp quả tiến thoái đều do mình, hiểu thật nghĩa pháp tạng.
Tùy thuận tâm ý của mọi tầng lớp thượng trung hạ, theo căn tánh lớn nhỏ mà hiểu mọi việc đời. Vì hiểu việc đời, nên thực hành hợp thời, nhân đó mà bảo hộ được mình. Nên mặc áo hổ thẹn để tự mình huân tu giới đức, làm cho tâm nhu hòa nhẫn nhục, tinh tấn không lỗi lầm, trí tuệ nhất tâm, siêng năng tinh tấn vì mình vì người mà thành tựu hạnh hổ thẹn.
Nhờ vậy việc xuất gia, tu hành tâm không dao động, không ai lay chuyển được, mà tâm lực lại thêm mạnh mẽ. Nhờ tâm lực mạnh mẽ, lại cúng dường Như Lai được thọ trì giáo Phật Pháp. Nên việc tu tập đạo địa được nghiêm tịnh, hiển bày sự hưng thịnh chánh pháp, tin tưởng sâu xa, đem từ bi cho chúng sinh.
Đầy đủ những pháp này, mới trụ được trong địa duyệt dự của Bồ Tát, được vô số Chư Phật soi xét hộ niệm, trải qua vô số trăm ngàn ức kiếp không giới hạn, được Chư Phật đến bảo vệ, hiện tiền được tinh tấn nguyện lực. Được gặp Như Lai là Bậc Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác. Đem tâm nhu hòa mà thờ phụng, tích lũy hạnh nghiệp kiên cố của Bồ Tát, kịp thời đến cứu hộ chúng sinh đang bị nguy ách, đó là căn bản của công đức.
Nhờ công đức đó hỗ trợ mà phát sinh đạo chánh chân vô thượng, cúng dường Chư Phật, giáo hóa chúng sinh, mong chúng sinh thành tựu. Muốn giáo hóa chúng sinh, nên cho thức uống ăn, trước hết trừ cơn đói khát, nghĩ đến bốn ân, sau là vui vẻ, đủ sức mạnh để cung phụng bậc Tối thượng, tôn kính bậc chánh trung, thương xót và tùy thuận kẻ dưới.
Ban bố trí tuệ và yêu thương, bình đẳng lợi ích cho người, trừ hết các tội lỗi, không còn tai ương, không gieo họa hoạn. Nhờ có cúng dường Phật, giáo hóa chúng sinh, nên thành đạt sự rốt ráo và trụ trong Địa này, dùng căn bản phước đức bảo hộ cho nhất thiết trí, dần dần đạt được trí sáng như sắc vàng thân Phật, giống như vàng ròng đã tôi luyện, lại nung trong lửa nên sắc của nó càng ánh lên.
Bồ Tát cũng thế, cúng dường Chư Phật, giáo hóa chúng sinh, công lực càng mạnh, nghiêm tịnh Phật Pháp, trụ trong đạo địa, dùng phước đức để phát thệ nguyện, đến khi căn bản được tiến thoái tự do.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Tám Mươi Chín - Phẩm đàm Vô Kiệt
Phật Thuyết Kinh Na Tiên đàm đạo - Phần Bốn - Thần Thức Tái Sanh
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bốn - Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hiếu Dưỡng
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Hai - Phẩm Xá Lợi Tử - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Quảng Thuyết Bát Lực