Phật Thuyết Kinh đồng Tử Thiện Tư - Phần Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH ĐỒNG TỬ THIỆN TƯ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẦN SÁU
Các pháp không chỗ khởi
Sao nói các pháp tập
Không chỗ khởi nói diệt
Chúng ấy xa pháp ta.
Trong pháp tịch như vậy
Không có cho phân biệt
Các pháp đã không có
Chỗ diệt lại cũng không.
Nếu có tâm cạnh tranh
Sao nói là tịch diệt?
Thiện Tư, ông nên biết
Đây không phải chân thật.
Nói đạo với nói pháp
Đấy là thị hiện có
Đã có chỗ thị hiện
Nen giả hiện có đường.
Ta nói các Bồ Tát
Đại trí đời vị lai
Có thể hành như vậy
Là nương cảnh giới này.
Hành giả có thể hành
Chư Phật nói thâm diệu
Họ đã cúng dường ta
Lợi ích cho muôn loài.
Có thể trì Kinh này
Các Bồ Tát đại trí
Trong đời vị lai kia
Vì gìn giữ các pháp.
Ta đã nói các pháp
Thường trụ không phân biệt
Đó tức là bồ đề
Lìa đó không đạo khác.
Lúc Đức Thế Tôn Giảng nói pháp này rồi, Đồng Tử Thiện Tư liền chứng đắc thuận nhẫn vô sinh ở trong các pháp. Đã chứng đắc nhẫn vô sinh nên vĩnh viễn xa lìa tất cả buồn vui của thế gian, được niềm vui lớn, liền bay trên hư không cách mặt đất bảy cây Đa La.
Đức Thế Tôn liền mỉm cười.
Khi các Đức Thế Tôn có pháp mỉm cười như vậy thì từ nơi diện môn phóng ra các loại ánh sáng, đó là: Tím, xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, vừa xanh vừa trắng, xanh biếc, màu lục, pha lê.
Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng, vô bien các thế giới của Chư Phật, cho đến cung điện nơi Cõi Hữu Đảnh, Đại Phạm Thiên, rồi trở về chỗ Phật, nhiễu quanh ba vòng và nhập vào đảnh Phật. Bấy giờ, đại địa hiện đủ sáu cách và mười tám tướng chấn động.
Lúc này, trong hư không, trên thượng giới, trời mưa các loại bột Chiên Đàn, trầm thủy, hương bột, mưa các loại hoa trời, các loại âm thanh nơi cõi trời vi diệu tự nhiên phát ra, tam thiên đại thiên Thế Giới trở nên thanh tịnh, trang nghiêm, giống như cõi nước Uất Đan Việt nơi phương Bắc không khác. Cũng vậy, tam thiên đại thiên Thế Giới này cũng không khác.
Bấy giờ, Trưởng Lão Tỳ Kheo A Nan, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch: Thật là hy hữu! Bạch Thế Tôn! Con chưa rõ vì nhân duyên gì khiến Như Lai mỉm cười, phóng ra hào quang?
Chư Phật Thế Tôn không phải không có nhân duyên mà phóng ra ánh sáng.
Tôn Giả A Nan liền dùng kệ thưa Phật:
Chư Phật, Bậc Tối Thắng thế gian
Mỉm cười, phóng quang ắt có việc
Chỗ lợi ích đó xin Phật dạy
Vì nhân duyên gì hiện điềm lành?
Hư không trời mưa hoa
Để cúng dường Thế Tôn
Hoan hỷ đều ca tụng
Khen ngợi thuyết Kinh này.
Trong tam thiên thế giới
Thanh tịnh và trang nghiêm
Giống như Uất Đan Việt
Ánh sáng chiếu mười phương.
Như xưa các Thế Tôn
Trong ấy hành thọ ký
Phật phóng quang chiếu xong
Trở vào nơi đảnh Phật.
Thế Tôn đã phóng quang
Ánh sáng nhiều loại sắc
Từ diện môn Phật xuất
Vì con nói nhân này.
Đức Thế Tôn liền dùng kệ bảo Trưởng Lão A Nan:
Đồng Tử Thiện Tư này
Xưa trồng căn lành sâu
Ở trong đời vị lai
Thành Phật Lưỡng Túc Tôn.
Đức Phật nói kệ rồi, lại bảo Tôn Giả A Nan: Này A Nan! Đồng Tử Thiện Tư từ nay trở đi cung kính cúng dường ức na do tha A tăng kỳ kiếp Chư Phật Như Lai, thừa sự, phụng hành, không làm trái lời dạy của Chư Phật ấy.
Lại nữa, còn cúng dường chư Thế Tôn ấy đầy đủ tứ sự: Y phục, thuốc thang, phòng ốc, ngọa cụ. Sau khi các Như Lai ấy diệt độ, sẽ cúng dường Xá Lợi, dùng nhiều loại châu báu để xây tháp, mỗi một tháp đều cao trăm ngàn do tuần.
Trong tất cả các bảo tháp ấy đều an trí Xá Lợi, dùng các loại danh hương để cúng dường. Lại dùng tất cả các loại tràng hoa để tạo vẻ trang nghiêm, tất cả các báu, tất cả các loại cờ phướn, vô số loại hoa đẹp và bột hương chiên đàn, bột hương trầm thủy… rải lên trên ấy để cúng dường.
Lại dùng các loại âm thanh thượng diệu để cúng dường. Cúng dường chư Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác ấy rồi, thì xả bỏ thân sau cùng, thành Phật hiệu là Tịnh Nguyệt Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ở đời.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Tôn Giả A Nan và chư đại chúng, nhằm nêu rõ lại nghĩa này nên nói kệ:
Các châu báu diệu kỳ
Đầy khắp mười phương cõi
Cúng dường Phật Thế Tôn
Và các chúng Bồ Tát.
Được nghe pháp tướng này
Như Đại Thánh đã nói
So công đức tài thí
Phước này nhiều hơn trước.
Khi ấy, Trưởng Lão Xá Lợi Phất nghe Đức Thế Tôn đối chiếu về công đức liền dùng kệ bạch Phật:
Thế Tôn nói Kinh này
Sâu xa tối vi diệu
Mà không nói danh tự
Sao chúng con thọ trì?
Kinh Điển này nói rõ
Các pháp đều bình đẳng
Không có đắc, chẳng đắc
Hy hữu, Phật khéo nói!
Hữu lậu và hữu vi
Pháp vô lậu, vô vi
Kinh này không phân biệt
Thế Tôn khéo giảng nói.
Thế gian, xuất thế gian
Đệ nhất nghĩa, thế đế
Hai cõi không sai khác
Kinh này nói như vậy.
Phật nói về các hạnh
Phương tiện vì chúng sinh
Chân lý thay đều không
Từ kim khẩu Phật nói.
Chư Phật và các pháp
Tất cả vốn là không
Năng, Sở thừa đều không
Hy hữu, Phật khéo nói!
Chư Thế Tôn mười phương
Nói về các pháp tướng
Chúng vốn không chơn thể
Kinh này hành như vậy.
Lành thay! Đại Thánh Tôn!
Lành thay! Trí Tối Thắng!
Kinh này tên là gì
Vì chúng con nói rõ!
Trí tuệ nói vậy rồi
Ngày nay trừ các nghi
Đủ tám tướng công đức
Âm thanh bảo với họ.
Muốn biết tên Kinh này
Gọi là Quán Đảnh Vương
Tuy nói Quán Đảnh Vương
Quán đảnh cũng không có.
Người thọ trì Kinh này
Chư Phật nói người ấy
Nơi trời, người, thế gian
Sẽ là như tháp báu.
Chỗ ta nói Kinh này
Thính chúng có tám ngàn
Các căn lành nhiều loại
Phát ý đạo vô thượng.
Chúng ấy ở đời sau
Tất thành bậc vô thượng
Được nghe Kinh diệu này
Phước đức khó nghĩ bàn.
Dừng trú nơi an ổn
Trong căn lành sâu mầu
Người ấy mới có thể
Thọ trì Kinh Điển này.
Buộc niệm, chuyên đọc tụng
Kinh pháp Quán Đảnh Vương
Những người này nơi ấy
Không nghi hoặc các pháp.
Đây không nói nhẫn đầu
Đệ nhị nhẫn cũng không
Tướng các pháp đã không
Sao lại có chỗ nói.
Nếu người nào thọ trì
Kinh Điển Quán Đảnh Vương
Người làm những việc ấy
Biện tài nơi các pháp.
Nếu người nữ có trí
Thọ trì Kinh Điển này
Mau xả thân tạp uế
Thân bất tịnh nghiệp tội.
Một trí biết tất cả
Tất cả trí biết một
Đó là nắm các pháp
Trong Kinh này nói đủ.
Pháp Kinh này nêu giảng
Chỗ vào như hư không
Con nói vào đạo này
Làm sáng rõ các pháp.
Biết nhiều sự sáng tỏ
Có nhiều loại khắp nơi
Tuy nói về các pháp
Pháp ấy không thủ đắc.
Thể vô ngôn hiện có
Tướng ấy rốt ráo không
Biết các pháp môn này
Đó là thọ trì pháp.
Nói không có các pháp
Chỗ ấy không có, không
Đó là tướng thể pháp
Gọi là Đà La Ni.
Nếu người muôn vô biên
Ánh sáng chiếu tất cả
Nên thọ trì Kinh này
Khéo nói Quán Đảnh Vương.
Muốn cầu bờ pháp giới
Trong đó đã nói đủ
Giới ấy không thủ đắc
Nên gọi Đà La Ni.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Năm Mươi Bốn - Phật Thuyết Kinh đến Nước Khỏa Thân
Phật Thuyết Kinh Pháp Vị Tằng Hữu Chánh Pháp - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Tám Mươi Năm - Phẩm Có Và Không
Phật Thuyết Kinh Cha Con Gặp Nhau - Phẩm Hai Mươi Hai - Thọ Ký Biến Tịnh Thiên
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - phẩm Bốn - Phẩm Vãng Sanh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Da Thâu
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Bồ Tát
Phật Thuyết Kinh Hoằng đạo Quảng Hiển Tam Muội - Phẩm Hai - Phẩm Thanh Tịnh ðạo