Phật Thuyết Kinh Pháp Luân Không Thoái Chuyển - Phẩm Hai - Phẩm Tín Hành - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thi Hộ, Đời Tống

PHẬT THUYẾT KINH

PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thi Hộ, Đời Tống  

PHẨM HAI

PHẨM TÍN HÀNH  

TẬP MỘT  

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ ấy xong, Tôn Giả A Nan liền bạch Phật: Hôm nay Như Lai vì Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà chuyển pháp luân không thoái chuyển?

Phật dạy: Đúng thế!

A Nan lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hôm nay Như Lai chuyển pháp luân không thoái chuyển phải không?

Đức Phật dạy: Đúng vậy, này A Nan! Như Lai thật sự chuyển pháp luân không thoái chuyển.

Tôn Giả lại bạch Phật: Như Lai dùng phương tiện thế nào để nói về tín hành, pháp hành, tám bậc như thị?

Cũng như nói về các quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Đối với bốn chúng đệ tử đang nghe pháp, Như Lai đều nêu rõ các pháp Bồ tat chăng?

Vì sao Như Lai lại nói: Vì hạng chúng sinh thấp kém nên mới xuất hiện ở cõi đời năm trược, hạng chúng sinh ấy khó lãnh hội pháp Đại Thừa.

Như Lai là Bậc Tự Tại, thành tựu phương tiện, nhận thấy chúng sinh hạng có tâm nguyện lớn thì ít, mà hạng tâm niệm thấp kém thì nhiều. Do vậy, vì Thế Tôn biết rõ căn tánh của chúng sinh để mở bày Phật Pháp, dùng phương tiện cứu độ, dùng vô lượng các pháp lành để giáo hóa chúng sinh, khien họ diệt trừ các khổ, được biết sinh tử, lìa các phiền não, khiến trụ nơi chánh đạo, chứng Niết Bàn vô vi, cho tới đạt được nhất thiết chủng trí.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan: Bậc Đại Bồ Tát! Vì vô lượng, vô biên chúng sinh giúp họ phát sinh tin tưởng, hiểu biết các kiến giải về Phật Pháp và pháp mà vô số các Đức Phật đã chứng biết. Các pháp ấy là không sắc, cho đến không thọ, tưởng, hành, thức, không tham nhiễm, không mê đắm, nên được gọi là tín hành.

Lại nữa, này A Nan! Bậc Đại Bồ Tát tin tưởng trí tuệ Phật tâm sinh vui mừng.

Thế nào là trí tuệ?

Trí tuệ là đều không thấy có thật pháp, vì không thấy có thật pháp nên gọi là tín hành.

Lại nữa, này A Nan! Các vị Đại Bồ Tát không đắm nhiễm năm dục lạc, không lìa bỏ lòng tin, nên gọi là Bồ Tát tín hành.

Bậc Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Bố thí pháp không thể nghĩ bàn cho các chúng sinh vẫn giữ tướng như thế, tin tưởng pháp thì không thể nghĩ bàn như thế, đó gọi là Bồ Tát tín hành.

Các vị Bồ Tát Ma Ha tát luôn tạo được sự hoan hỷ, có thể xả bỏ cả thân mình mà vẫn chưa cho là đủ, đối với mọi hoàn cảnh và nơi chốn đều không hề sinh ganh ghét giận dữ, các việc làm bố thí đều hồi hướng, hồi hướng mà cũng không có ý tưởng để cầu được bồ đề, vì không hoại diệt công đức hồi hướng ấy nên gọi là Bồ Tát tín hành.

Lại nữa, này A Nan! Các vị Đại Bồ Tát luôn giữ lòng tin thanh tịnh, chánh niệm hướng về Phật, tâm không cấu uế và cũng tin là không hề bị cấu nhiễm, xem các pháp đều bình đẳng, không có chúng sinh, thọ mạng, ta, người, không có uẩn, giới, nhập, cũng tự mình không mê đắm thọ mạng, nơi chốn, đó gọi là tín hành giải thoát.

Các vị Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sinh khiến họ kính tin Phật Pháp, để điều phục tâm hồi hướng về bồ đề, cũng không chấp vào tướng của tâm. Nhận thức rõ về sáu giới, năm uẩn, mười hai nhập đều bình đẳng, đều đồng với pháp giới.

Vì không phân biệt nên biết pháp giới không có tướng khác, đó là tin tất cả hành là vô thường, tất cả các hành là khổ, tất cả hành là không, tất cả hành là vô ngã. Đối với pháp ấy được năng lực trí tuệ. Tin bố thí, tin vào giới luật của Phật, không rơi vào cõi chỗ đùa bỡn, được năng lực Thiền định, tin vào cõi vắng lặng, đó gọi là Bồ Tát tín hành.

Các vị Đại Bồ Tát tuy giáo hóa chúng sinh thường tin vào sự vắng lặng nhưng không bám víu vào tướng chúng sinh, xem các chúng sinh đồng với giải thoát, khéo biết tất cả chúng sinh là vô tướng, đều đồng với pháp giới, chẳng thể nhận thức, cũng không phải chẳng nhận thức.

Vì sao?

Vì pháp giới tức là cõi tâm của tất cả chúng sinh, nên gọi là Đại Bồ Tát tín hành.

Lại nữa, này A Nan! Đại Bồ Tát xem tất cả chúng sinh là không thật có, không trụ, không diệt, tánh tướng vốn không. Vì vậy, chẳng hề thấy tất cả chúng sinh, cũng không thấy có nơi nương tựa, xem tất cả chúng sinh đồng giới cảnh giới Niết Bàn.

Vì sao?

Vì tất cả chúng sinh đều nhập vào không giới. Bồ Tát có khả năng khiến cho vô lượng chúng sinh như thế đều kính tin và hiểu rõ nên gọi là Đại Bồ Tát tín hành.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ:

Chúng sinh kính tin

Thấy vô số Phật

Không đắm sắc tướng

Đó là tín hành.

Tin tất cả pháp

Mở bày không tướng

Thành tựu giải thoát

Đó là tín hành.

Thường tin chánh pháp

Ưa thích cầu Phật

Lúc nào sẽ đạt

Trí không nghĩ bàn

Xét rõ năm dục

Thật không đáng tin,

Được năng lực tin

Đó là tín hành.

Niềm tin như thế

Rất là tốt đẹp

Phải tu pháp thí

Cúng dường Đại Tiên.

Thí không nghĩ bàn

Nên được tín biện

Không tâm thấp kém

Đó là tín hành.

Xả bỏ tất cả

Thân mình yêu mến

Nhưng không tưởng xả

Đó là tín hành.

Bố thí tất cả

Chẳng hề ganh ghét

Lìa tưởng bồ đề

Đó là tín hành.

Tín tâm thanh tịnh

Dứt tất cả nhơ

Cũng không tuổi thọ

Đó là tín hành.

Tuy tu hạnh thí

Chẳng cầu quả báo

Được sức tin sâu

Đó là tín hành.

Xả bỏ sáu nhập

Chẳng nghĩ quả báo

Khéo hiểu sáu giới

Đó là tín hành.

Tự điều phục mình

Và điều phục người

Khiến tin Phật Pháp

Đó là tín hành.

Được niềm tin rồi

Hồi hướng bồ đề

Dứt những tướng tâm

Đó là tín hành.

Biết rõ sáu giới

Đều đồng pháp giới

Tuy nói pháp giới

Chẳng đạt tướng giới.

Các hành vô thường

Khổ, không, vô ngã

Cũng không mê đắm

Đó là tín hành.

Kính tin giới Thánh

Dứt mọi đùa bỡn

Thành tựu thiền định

Đó là tín hành.

Tin các chúng sinh

Cùng tướng vắng lặng

Biết vô tướng rồi

Đó là tín hành.

Chẳng đắm chúng sinh

Cùng nhập pháp giới

Cõi chúng sinh này

Không thể nghĩ bàn

Dùng tín sinh tín

Đó gọi là tín

Bồ Tát vô úy

Đó là tín hành.

Chúng sinh quyết định

Dứt hết các tưởng

Thể tánh như không

Không chỗ, không chứng

Chúng sinh, Niết Bàn

Cả hai đều không

Nương đó tín sinh

Đó là tín hành.

Bồ Tát không sợ

Tin các chúng sinh

Không bám tên chữ

Từ tin mà sinh

Tin được như vậy

Thường nhớ chẳng mất

A Nan nhớ ghi

Phân biệt chỉ rõ.

Các pháp như thế

Vô lượng, vô số

Phật đã chứng ngộ

Bồ Tát hiển bày.

Lại nữa, này A Nan! Như Lai Đa Đà A Già Độ đầy đủ tín lực mới có thể giảng nói ý nghĩa sâu mầu như thế. Cho nên gọi là Đại Bồ Tát tín hành.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy chúng sinh tín lực đã được vững chắc, nên lại nói bài tụng:

Tất cả người nghe

Tâm đều vui mừng

Các Phật tử này

Nói về công đức,

Bồ Tát hiện rõ

Chẳng thể nghĩa bàn

Bồ Đề các Phật

Người chẳng tín tin

Chẳng nhiễm giả danh

Cũng không tâm sở

Chẳng đắm mười phương

Gọi Tín tối thắng.

Bồ Tát bày nói

Thường tu pháp tin

Chẳng chấp vào không

Nêu bày vắng lặng

Cứu đời nên nói

Giải thoát như vậy

Sắc tướng cũng thế

Như thuyết tu hành.

Bồ Tát bày nói

Người trí kính tin

Phật chẳng thể bàn

Vô lượng nhớ nghĩ

Điều Bồ Tát tin

Hư không vô biên

Trí Phật vô lượng

Hiệu là Trượng Phu.

Chí cầu không đắm

Chẳng vì tham dục

Tạo tác chẳng lành

Mà bỏ pháp vui

Đó gọi Bồ Tát

Thực hành pháp thí

Tín của Bồ Tát

Thiện Thệ ấn chứng.

Pháp thí chẳng nghĩ bàn

Tín bố thí uống ăn

Ma ni, vàng, voi, ngựa

Tất cả xe, nô tỳ

Vợ con các nam nữ

Xả thí luôn cõi nước

Tay, chân, các bộ phận

Đầu mắt và não tủy

Mắt tai và mũi miệng

Thắng tín của Bồ Tát

Xả thân không đắm nhiễm

Hành thí cũng không nghĩ

Ta vốn tu pháp thí

Mong đạt trí tuệ Phật

Xả thân không đắm nhiễm

Tất cả thí vui mừng

Luôn gần gũi bạn lành

Xả bỏ thân mỏng manh

Đối với các chúng sinh

Tín tâm thường thanh tịnh

Nghe pháp, tin các Phật

Đó gọi là Bồ Tát.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần