Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm địa Chủ - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẨM HAI MƯƠI BA
PHẨM ĐỊA CHỦ
PHẦN MỘT
Tôi nghe như vậy!
Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Vua Ba Tư Nặc bảo các quần thần rằng: Các ông hãy sai sửa soạn xe vũ bảo xe có lọng. Ta muốn đến chỗ Thế Tôn để lễ bái, thăm hỏi.
Bấy giờ tả hữu vâng lệnh Vua sửa soạn xe vũ bảo rồi thưa Vua: Ðã sửa soạn xe xong, nay đã đến giờ. Bấy giờ Vua Ba Tư Nặc liền ngồi xe vũ bảo, có vài ngàn người đi bộ và cỡi ngựa đi theo, vây quanh trước sau, ra khỏi nước Xá Vệ, đến Tinh Xá Kỳ Hoàn, tới chỗ Thế Tôn.
Như các pháp của Vua, Vua tháo bỏ năm món trang sức là: Lọng, mũ, kiếm, giày, và phất trần vàng, để qua một bên, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi xuống một bên. Bấy giờ Thế Tôn thuyết thâm pháp cho Vua, khuyến khích, làm cho hoan hỉ.
Vua Ba Tư Nặc nghe thuyết pháp xong, bạch Thế Tôn: Cúi mong Thế Tôn nhận lời con thỉnh trong ba tháng, cùng Tỳ Kheo Tăng, chớ đi nơi khác. Thế Tôn làm thinh nhận lời thỉnh của Vua Ba Tư Nặc. Vua Ba Tư Nặc thấy Thế Tôn yên lặng nhận lời mời, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui đi.
Về đến thành Xá Vệ, Vua ra lệnh cho các quần thần: Ta muốn cúng dường thức ăn cho Đức Phật và Tỳ Kheo Tăng trong ba tháng, cung cấp các thức cần dùng như y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men khi bệnh tật. Các ông cũng nên phát tâm hoan hỉ.
Quần Thần đáp: Xin vâng. Vua Ba Tư Nặc liền cất đại giảng đường ngoài cửa cung cấp hết sức đẹp đẽ, treo giăng phướn, lọng, kỹ nhạc xướng lên vô kể, bày các ao tắm, chưng các đèn dầu, dọn các thức ăn trăm vị.
Bấy giờ Vua Ba Tư Nặc bạch Phật: Ðã đến giờ, cúi mong Thế Tôn đoái đến chốn này. Thế Tôn thấy đã đến giờ, đắp y, ôm bát, cùng các Tỳ Kheo Tăng, vây quanh trước sau vào thành Xá Vệ, đến giảng đường kia.
Ðến rồi Ngài lại tòa ngồi, các Tỳ Kheo mỗi vị ngồi theo thứ tự. Khi ấy, Vua Ba Tư Nặc cùng các cung nhân tự tay đem thức ăn cung cấp chỗ cần dùng. Suốt ba tháng không chút thiếu sót, cung cấp y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men khi bệnh tật.
Thấy Thế Tôn ăn xong, Vua đem các thứ hoa rải lên Thế Tôn và các Tỳ Kheo Tăng rồi lấy một ghế nhỏ đến trước Như Lai ngồi, bạch Thế Tôn:
Con từng theo Phật nghe: Do gốc nhân duyên bố thí thức ăn cho súc sanh được phước trăm lần, cho người phạm giới ăn được phước ngàn lần, cho người trì giới ăn được phước vạn lần, cho Tiên Nhân đoạn dục ăn được phước ức lần, cho bậc hướng Tu Đà Hoàn ăn được phước chẳng thể kể.
Huống lại Thánh Quả Tu Đà Hoàn, huống là bậc hướng Tư Đà Hàm, đắc đạo Tư Đà Hàm, huống bậc hướng A Na Hàm, đắc đạo A Na Hàm, huống bậc hướng A La Hán, đắc đạo A La Hán, huống bậc hướng Bích Chi Phật, đắc Bích Chi Phật.
Huống bậc hướng Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, huống bậc thành Phật và Tỳ Kheo Tăng, phước đó công đức không thể tính kể. Hôm nay con tạo công đức đã xong.
Thế Tôn bảo: Đại Vương! Chớ có nói thế! Làm phước không nhàm chán, hôm nay cớ sao nói đã làm xong?
Vì sao thế?
Vì sanh tử dài lâu không thể kể. Thuở quá khứ lâu xa, có Vua tên là Ðịa Chủ, thống lãnh cõi Diêm Phù Ðề này. Vua có Ðại Thần tên Thiện Minh, chu toàn cho Vua từng chút một, chẳng sợ khó khăn.
Bấy giờ nhà Vua chia cho Ðại Thần một nửa đất Diêm Phù Ðề để cai trị. Tiểu Vương Thiện Minh tự tạo thành quách, Ðông, Tây mười hai do tuần, rộng bảy do tuần, đất đai thuần thục, màu mỡ, dân chúng đông đúc.
Thành ấy tên là Viễn Chiếu, vị phu nhân đệ nhất của Vua Thiện Minh tên là Nhật Nguyệt Quang, không cao, không thấp, không mập, không ốm, chẳng trắng, chẳng đen, nhan mạo đoan chánh, hiếm có ở đời, miệng thơm hương hoa Ưu Bát, thân có mùi Chiên Đàn.
Chưa được mấy hôm, bà có thai, phu nhân ấy liền đến tâu Vua: Nay tôi có thai. Vua nghe xong vui mừng hớn hở, không thể kềm được, liền sai tả hữu xếp đặt cụ khoái lạc vô kể. Phu nhân mang thai, đến ngày sanh một bé trai. Khi đang sanh, thấy đất Diêm Phù Sắc vàng rực rỡ, nhan mạo của cậu bé đoan chánh, đủ ba mươi hai tướng, thân màu vàng.
Đại Vương Thiện Minh thấy Thái Tử này thì vui mừng hớn hở, hân hoan vô lượng, liền mời các Ðạo Sĩ Bà La Môn, rồi bồng Thái Tử đến để xem tướng: Nay ta sanh đứa bé này, các khanh xem tướng và đặt tên cho ta.
Các thầy tướng vâng lệnh Vua, mỗi người bế Thái Tử lên ngắm nghía, quan sát tướng mạo, cùng tâu Vua: Thái Tử của Thánh Vương đoan chánh vô song, các căn không khiếm khuyết, có ba mươi hai tướng.
Nay, Thái Tử sẽ có hai đường: Nếu ở tại nhà sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, bảy báu đầy đủ.
Bảy báu là: Xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, Cư Sĩ báu, điển binh báu. Ðó là bảy.
Chuyển Luân Thánh Vương sẽ có ngàn đứa con mạnh mẽ, cương cường, hay dẹp trừ quân địch, chẳng dùng đao trượng, tự nhiên hàng phục được bốn bể. Nếu Vương Tử này xuất gia học đạo, sẽ thành Vô Thượng Chánh Giác, danh đức vang xa khắp toàn Thế Giới. Hôm nay sanh Thái Tử này, ánh sáng chiếu xa, nay xin đặt tên tự Vương Tử là Ðăng Quang.
Các thầy tướng đặt tên xong liền lui đi. Suốt ngày, Vua bồng Thái Tử không rời mắt.
Rồi Vua lập ba giảng đường cho Thái Tử: Mùa thu, mùa đông, mùa hạ tùy đó mà thích nghi. Cung nhân, thể nữ đầy cung cho Thái Tử vui chơi ở đó. Lúc Thái Tử của Vua hai mươi chín tuổi, do lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo. Ngày đêm xuất gia Ngài thành Phật.
Bấy giờ khắp đất Diêm Phù đề đều hay biết Thái Tử của Vua xuất gia học đạo, ngay ngày ấy thành Phật. Sáng sớm, Vua cha nghe Thái Tử xuất gia học đạo, đêm đó thành Phật.
Vua liền nghĩ rằng: Ðêm qua, ta nghe Chư Thiên đều cùng khen lành trên hư không. Ðây chắc là điềm lành, chẳng phải tiếng dữ. Nay ta hãy đến để gặp gỡ.
Vua liền dẫn bốn mươi ức nam nữ vây quanh đi đến chỗ Phật Ðăng Quang. Ðến rồi cúi lạy và ngồi một bên, bốn mươi ức chúng cùng lễ lạy ngồi ở một bên. Bấy giờ, Như Lai thuyết diệu luận lần lượt cho Phụ Vương và bốn mươi ức chúng.
Luận nghĩa là: Luận bố thí, luận trì giới, luận sanh Thiên, dục là ô uế, lậu là hạnh bất tịnh, xuất gia là cần yếu để quả báo thanh tịnh. Bấy giờ Như Lai xem ý của chúng sanh tâm tánh nhu hòa. Những pháp khổ, tập, diệt mà chư Như Lai thường thuyết, Ngài đều rộng thuyết nghĩa này cho bốn mươi ức chúng kia cả. Họ liền ngay chỗ ngồi sạch các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
Bốn mươi ức chúng bạch Ðăng Quang Như Lai rằng: Chúng con có ý muốn cạo tóc xuất gia học đạo.
Đại Vương nên biết! Bấy giờ bốn mươi ức chúng đều được xuất gia học đạo, ngày hôm đó thành A La Hán. Ðăng Quang Như Lai đem bốn mươi ức chúng đều là những người không còn dính mắc, du hành trong cõi nước ấy.
Nhân dân trong nước cúng dường bốn món: Y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc thang khi bệnh tật, không thiếu thốn gì.
Bấy giờ Đại Vương Ðịa Chủ nghe Ngài Ðăng Quang thành Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, đem bốn mươi ức chúng đều là bậc không dính mắc, du hành cõi nước kia, liền nghĩ: Nay ta nên nhắn tin đến thỉnh Như Lai ở đây du hóa. Nếu khiến Ngài đến được thì bổn nguyện của ta được đầy đủ. Nếu Ngài không đến, tự ta sẽ đến lễ bái, quỳ lạy thăm hỏi.
Rồi Vua liền sai một vi quan: Ông đến nơi đó thăm hỏi Như Lai, đem tên tuổi ta cúi lạy thăm hỏi Như Lai sống có nhẹ nhàng, đi đứng có mạnh khỏe không?
Hãy nói: Vua Ðịa Chủ thăm hỏi Như Lai có được nhẹ nhàng, đi đứng mạnh khỏe không?
Cúi mong Thế Tôn chiếu cố đến chốn này. Người ấy nhận lệnh Vua liền đến nước kia.
Ðến rồi cúi lạy Thế Tôn, đứng qua một bên rồi thưa: Đại Vương Ðịa Chủ cúi lạy Như Lai, thăm hỏi Thế Tôn sinh hoạt có nhẹ nhàng, đi đứng mạnh khỏe không?
Cúi mong Thế Tôn chiếu cố đến nước kia. Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh ấy.
Rồi Ðăng Quang Như Lai cùng với bốn mươi ức đại chúng Tỳ Kheo dần dần du hành trong nhân gian, khắp nơi đều được cung kính, mọi người đều đem cống hiến y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men khi bệnh tật. Chư vị dần đến cõi nước của Vua Ðịa Chủ.
Đại Vương Ðịa Chủ nghe Ðăng Quang Như Lai đem bốn mươi ức đại chúng Tỳ Kheo đến nước này, đang ở trong vườn Bắc Bà La, liền nghĩ: Nay ta nên tự đến nghinh đón. Đại Vương Ðịa Chủ lại đem bốn mươi ức chúng đến chỗ Ðăng Quang Như Lai, đến rồi cúi lạy, ngồi một bên và bốn mươi ức chúng cúi lạy ngồi một bên.
Bấy giờ Ðăng Quang Như Lai đối diện lần lượt thuyết diệu luận cho Vua kia và bốn mươi ức chúng.
Luận nghĩa là: Luận bố thí, luận trì giới, luận sanh Thiên, dục là ô uế, lậu là hạnh bất tịnh, xuất gia là cần yếu để được quả báo thanh tịnh. Bấy giờ Như Lai xem ý của chúng sanh, tâm tánh nhu hòa, pháp khổ, tập, diệt, ðạo Chư Phật Như Lai thường thuyết, Ngài rộng thuyết hết nghĩa này cho bốn mươi ức chúng. Mọi người ở ngay trên tòa sạch các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
Bốn mươi ức chúng bạch Ðăng Quang Như Lai: Chúng con ý muốn cạo râu tóc, xuất gia học đạo.
Đại Vương nên biết!
Bấy giờ bốn mươi ức chúng đều được xuất gia học đạo, ngay ngày hôm đó Thành A La Hán. Đại Vương Ðịa Chủ liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui đi. Ðăng Quang Như Lai đem tám mươi ức chúng đều là A La Hán du hành trong nước đó.
Nhân dân trong nước cúng dường bốn món: Y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc men khi bệnh tật. Mọi việc cung cấp không thiếu sót gì. Bấy giờ, Đại Vương Ðịa Chủ lại vào lúc khác đem quần thần đến chỗ Như Lai, cúi lạy rồi ngồi một bên. Ðăng Quang Như Lai thuyết pháp vi diệu cho Quốc Vương kia.
Đại Vương Ðịa Chủ bạch Như Lai rằng: Cúi mong Thế Tôn nhận sự cúng dường của con suốt đời và các Tỳ Kheo Tăng, con sẽ cung cấp y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men khi bệnh tật, thảy đều cung cấp. Ðăng Quang Như Lai im lặng nhận lời thỉnh của Đại Vương.
Vua thấy Phật im lặng nhận thỉnh, lại bạch Thế Tôn lần nữa: Nay con theo Thế Tôn cầu mong được chấp nhận.
Thế Tôn bảo: Pháp của Như Lai đã quá sự mong ước này.
Vua bạch Thế Tôn: Nay con cầu nguyện rất là tịnh diệu!
Thế Tôn bảo: Chỗ cầu nguyện tịnh diệu thế nào?
Vua bạch Thế Tôn: Như ý của con thì hôm nay Chúng Tăng dùng một bát ăn, ngày mai lại dùng bát khác ăn.
Hôm nay Chúng Tăng mặc một loại y phục, ngày mai lại đổi y phục khác.
Hôm nay Chúng Tăng ngồi một loại tòa, ngày mai lại ngồi tòa khác.
Hôm nay Chúng Tăng sai khiến thị giả, ngày mai lại đổi thị giả. Chỗ cầu mong của con chính là nghĩa này.
Ðăng Quang Như Lai bảo: Tùy chỗ ông nguyện, nay chính đúng lúc. Đại Vương Ðịa Chủ vui mừng hớn hở không kềm được, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui về cung.
Ðến rồi bảo các quần thần: Nay ý ta muốn suốt đời cúng dường Ðăng Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác và chúng Tỳ Kheo y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc men khi bệnh tật, khuyên các ông cũng nên giúp đỡ ta sắp đặt cúng dường.
Quần Thần đáp: Như lời Đại Vương dạy. Cách Thành không xa, non một do tuần, Vua tạo lập một tòa nhà, chạm trổ văn vẻ, năm màu khắp Trời Đất, treo tua phướn bảo cái, xướng kỹ nhạc, rưới hương ướt đất, sửa sang ao tắm, đặt đủ đèn sáng và các thức ăn uống ngon ngọt, xếp đặt chỗ ngồi.
Rồi Vua bạch Phật giờ đến: Nay chính đúng giờ, mong Ngài chiếu cố. Ðăng Quang Như Lai đã biết đến giờ, liền đắp y, ôm bát cùng chúng Tỳ Kheo vây quanh trước sau, đi đến giảng đường, mỗi người đến tòa mà ngồi.
Đại Vương Ðịa Chủ thấy Phật và Tỳ Kheo Tăng ngồi xong, đem cung nhân, thể nữ và các Đại Thần, tự tay châm chước, dọn các món ăn uống trăm vị.
Đại Vương nên biết!
Bấy giờ Đại Vương Ðịa Chủ trong bảy vạn năm cúng dường Ðăng Quang Như Lai và tám mươi ức chúng A La Hán, chưa hề lười mỏi. Như Lai kia giáo hóa chu tất rồi liền ở Vô Dư Niết Bàn mà nhập Niết Bàn. Đại Vương Ðịa Chủ dùng trăm thứ hương hoa cúng dường.
Ở bốn ngã đường dựng lên bốn Tháp mỗi cái bằng bảy báu vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, treo tua, phướn, bảo cái, hương hoa phướn lọng và tám mươi ức chúng lần lượt ở Vô Dư Niết Bàn mà nhập Niết Bàn. Bấy giờ Đại Vương thu thập Xá Lợi của tám mươi ức chúng, lập thần tự, đều treo tua, phướn lọng, hương hoa cúng dường.
Đại Vương nên biết!
Bấy giờ Đại Vương Ðịa Chủ lại cúng dường tháp Ðăng Quang Như Lai và tháp tám mươi ức La Hán. Lại trải qua bảy vạn năm tùy thời cúng dường, thắp đèn rải hoa, treo tua, phướn lọng.
Đại Vương nên biết! Giáo Pháp của Ðăng Quang Như Lai để lại diệt hết, Vua kia mới chịu diệt độ. Đại Vương Ðịa Chủ lúc đó nào phải là ai khác. Chớ có xem như thế.
Vì cớ sao?
Đại Vương Ðịa Chủ tức là thân ta vậy. ta lúc đó trong bảy vạn năm đem y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc men khi bệnh tật cúng dường Phật kia không để giảm thiếu. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, ta lại ở trong bảy vạn năm cúng dường hình tượng Xá Lợi, thắp hương, đốt đèn, treo tua, phướn lọng, không chỗ nào cạn thiếu.
Lúc đó ta đem công đức này, cầu được phước ở trong sanh tử, chẳng cầu giải thoát.
Đại Vương nên biết! Phước đức có được lúc bấy giờ, nay có dư thừa không?
Chớ xem thế! Như ta hôm nay, phước đức kia chẳng còn một mảy may như lông tóc.
Vì sao thế?
Vì sanh tử lâu dài không thể kể nhớ. Trong đó thảy hưởng hết phước, chẳng còn một hào ly.
Thế nên, Đại Vương, chớ có bảo rằng: Hôm nay, ta tạo phước đức đã xong.
Đại Vương!
Hãy nói rằng: Nay thân, miệng, ý của ta tạo các hạnh đều mong cầu giải thoát, chẳng cầu ở trong sanh tử. Nghiệp phước liền được luôn luôn an ổn vô lượng.
Bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc liền ôm lòng sợ hãi, lông áo dựng ngược, buồn khóc lẫn lộn, lấy tay gạt lệ, cúi lạy, tự trình bày lỗi của mình, như ngu, như ngây, không hiểu biết gì.
Cúi mong Thế Tôn nhận lời hối lỗi của con. Nay năm vóc gieo xuống đất, sửa đổi lỗi đã qua, con chẳng nói năng như thế nữa. Cúi mong Thế Tôn nhận con hối lỗi. Như thế đến ba lần.
Thế Tôn bảo: Lành thay, lành thay, Đại Vương!
Nay ở trước Như Lai sám hối sự phi pháp này, đổi lỗi cũ để tu sửa về sau. Nay ta chấp nhận sự hối lỗi của Ngài, chớ tạo lại nữa.
Bấy giờ ở trong đại chúng có một Tỳ Kheo Ni tên Ca Chiên Diên, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi bạch Thế Tôn: Nay Thế Tôn nói thật là vi diệu.
Thế Tôn bảo Vua Ba Tư Nặc rằng: Đại Vương nên biết!
Thân, miệng, ý tạo các hạnh đều cầu giải thoát, chớ cầu ở trong sanh tử hưởng phước nghiệp này, lại luôn luôn được an ổn vô lượng.
Vì sao như thế?
Con tự nhớ ba mươi mốt kiếp, Phạn Thức Cật Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, du hóa tại Thế Giới Dã Mã.
Bấy giờ Đức Phật đến giờ đắp y, ôm bát vào thành Dã Mã khất thực. Lúc đó trong thành có một người làm thuê tên là Thuần Hắc.
Ông ta thấy Như Lai ôm bát vào thành khất thực, thấy rồi liền nghĩ: Nay Như Lai vào thành ắt phải ăn uống.
Ông liền vào nhà lấy thức ăn ra bố thí cho Như Lai và phát lời thệ nguyện: Con trì công đức này, không bị đọa trong ba đường ác. Khiến con đời tương lai cũng sẽ gặp bậc Thánh Tôn như thế, cũng sẽ khiến Thánh Tôn kia vì con thuyết pháp được giải thoát. Thế Tôn và Vua Ba Tư Nặc đều cùng biết đó.
Lúc ấy, người làm thuê Thuần Hắc há là người khác ư?
Chớ xem như thế.
Vì cớ sao?
Bấy giờ người làm thuê Thuần Hắc chính là thân con.
Con ở thời Phạn Thức Cật Như Lai ấy phát thệ nguyện này: Khiến đời tương lai gặp vị Thánh Tôn này thuyết pháp cho con được giải thoát. Con ở ba mươi mốt kiếp chẳng đọa trong ba đường ác, sanh trong Trời, Người, cuối cùng ngày nay thọ thân phận này, gặp gỡ Thánh Tôn được xuất gia học đạo, dứt sạch các hữu lậu thành A La Hán.
Như lời Thế Tôn nói rất là vi diệu, bảo với Vua Ba Tư Nặc: Thân, miệng, ý tạo các hạnh đều cầu giải thoát, chớ ở sanh tử hưởng phước nghiệp này.
Con nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di tâm hoan hỉ, ý hướng về Như Lai, con liền nghĩ rằng: Các Bậc Hiền Sĩ này dụng ý vẫn không phải là lời Như Lai nói về sự ái kính cúng dường.
Con thấy bốn bộ chúng liền đến bảo rằng:
Chư Hiền có cần vật gì không?
Y bát, tọa cụ, ống kim, bồn tắm?
Và các Sa Môn khác cần vật gì tôi đều sẽ cung cấp. Con đã hứa, liền đi khắp nơi cầu xin. Nếu con được thì rất may, nếu khiến chẳng được thì liền đến Uất Ðơn Việt, Cù Na Di, Phất Vu Ðệ để tìm hỏi xin cho họ.
Vì sao thế?
Con đều do bốn bộ chúng này mà đắc đạo Niết Bàn.
Bấy giờ Thế Tôn quán sát tâm Tỳ Kheo Ni Ca Chiên Diên, liền bảo các Tỳ Kheo: Các Thầy có thấy người nào tín tâm giải thoát như thế so với Tỳ Kheo Ni Ca Chiên Diên chăng?
Các Tỳ Kheo đáp: Không thấy, bạch Thế Tôn!
Thế Tôn bảo: Trong hàng Thanh Văn của ta, đệ nhất Tỳ Kheo Ni được tín giải thoát là Tỳ Kheo Ni Ca Chiên Diên. Bấy giờ Tỳ Kheo Ni Ca Chiên Diên, cùng Vua Ba Tư Nặc với bốn bộ chúng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở thành La Duyệt, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ Kheo. Bấy giờ Tôn Giả Bà Câu Lô ở tại một hóc núi vá nạp y cũ.
Khi ấy Thích Đề Hoàn Nhân từ xa trông thấy Tôn Giả Bà Câu Lô ở một hóc núi vá y cũ, thấy rồi liền nghĩ rằng: Tôn Giả Bà Câu Lô này đã thành A La Hán, các trói buộc đã cởi, trường thọ vô lượng, hằng tự hàng phục, suy nghĩ vô thường, khổ, không, vô ngã, chẳng dích mắc việc đời, cũng lại chẳng thuyết pháp cho người khác, lặng lẽ tự tu như ngoại đạo dị học.
Chẳng rõ vị Tôn Giả này có thể thuyết pháp cho người khác hay không làm nổi. Nay ta nên thử xem. Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân từ Cõi Trời Ba mươi ba biến mất, đến núi Kỳ Xà Quật, đứng trước Tôn Giả Bà Câu Lô, cúi lạy rồi đứng một bên.
Khi ấy Thích Đề Hoàn Nhân liền nói kệ này:
Người trí khen ngợi thuyết,
Cớ sao chẳng thuyết pháp?
Dẹp kiết, thành hạnh Thánh,
Sao lại lặng lẽ trụ?
Tôn Giả Bà Câu Lô lại dùng kệ mà đáp Thích Đề Hoàn Nhân:
Có Phật, Xá Lợi Phất
A Nan, Quân Đầu, Bàn Ðặc
Cũng cùng các tôn trưởng
Khéo hay thuyết pháp mầu.
Thích Đề Hoàn Nhân bạch Tôn Giả Bà Câu Lô:
Căn tánh của chúng sanh có bao nhiêu loại, nhưng Ngài nên biết: Thế Tôn cũng nói chúng sanh rất nhiều chủng loại ở cõi đất.
Cớ sao Tôn Giả Bà Câu Lô không thuyết pháp cho người khác?
Ngài Bà Câu Lô đáp: Các loại chúng sanh rất khó hiểu biết. Thế Giới bao nhiêu Quốc Độ chẳng đồng, đều dính mắc ngã sở và không phải ngã sở. Nay tôi quán sát nghĩa này rồi, nên không thuyết pháp cho người.
Thích Đề Hoàn Nhân nói: Xin Ngài thuyết cho tôi nghĩa ngã sở và không phải ngã sở.
Tôn Giả Bà Câu Lô nói: Ta, người, thọ mạng, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc sĩ phu chúng sanh, đều nương mạng này mà tồn tại.
Nhưng lại, này Câu Dực, Thế Tôn cũng nói: Tỳ Kheo nên biết! Hãy tự hăng hái không khởi pháp tà, cũng hay yên lặng như Hiền Thánh. Tôi xem nghĩa này rồi nên làm thinh.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân vọng về Thế Tôn, chắp tay nói bài kệ này:
Quy mạng đấng Thập Lực,
Tròn sáng không bụi bặm,
Khắp vì tất cả người,
Ðây thật rất kỳ đặc.
Tôn Giả Bà Câu Lô nói:
Vì sao Ðế Thích nói:
Ðây thật rất kỳ đặc?
Thích Đề Hoàn Nhân đáp:
Tôi tự nhớ lúc xưa đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy Thế Tôn mà hỏi nghĩa này: Loài Trời, người có tưởng niệm nào?
Bấy giờ Thế Tôn bảo tôi rằng: Thế Giới này bao nhiêu loại, mỗi mỗi sai khác, nguồn gốc chẳng đồng.
Tôi nghe lời này xong, đáp: Ðúng vậy, Thế Tôn! Như Thế Tôn nói Thế Giới bao nhiêu loại, mỗi mỗi chẳng đồng. Nếu thuyết pháp cho chúng sanh kia thì có người thành Thánh Quả.
Tôi do đây nên nói: Đây rất là kỳ đặc.
Mà Tôn Giả Bà Câu Lô cũng nói như thế: Thế Giới bao nhiêu loại, mỗi mỗi chẳng đồng.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân nghĩ: Tôn Giả này kham nhậm thuyết pháp cho người chứ không phải không thể. Thích Đề Hoàn Nhân từ chỗ ngồi đứng lên mà đi.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân nghe Tôn Giả Bà Câu Lô nói xong, vui vẻ vâng làm.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Hoằng đạo Quảng Hiển Tam Muội - Phẩm Bảy - Phẩm Chuyển Pháp Luân
Phật Thuyết Kinh Cha Con Gặp Nhau - Phẩm Ba - Vua Tịnh Phạn đến đảnh Lễ đức Như Lai
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Mười Năm - Kinh Phương Thuốc Chóng Lớn
Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành - Phẩm Mười Bảy - Nghĩ Về đời Trước
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Mười Tám - Phẩm đạt đến Vô Lượng - Phần Bốn