Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Hai Mươi Ba - Chư Thiên đẳng Hiến Phật Trợ Thành Tam Muội Pháp ấn Chú Phẩm - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN HAI MƯƠI BA

CHƯ THIÊN ĐẲNG HIẾN PHẬT

TRỢ THÀNH TAM MUỘI PHÁP

ẤN CHÚ PHẨM  

TẬP HAI  

Pháp của Tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương.

Vaiśravaṇa: Đa Văn Thiên.

Tượng ấy: Lớn nhỏ, quần áo dựa theo lúc trước. Tay trái đồng với lúc trước, cầm cây giáo dài chống đất. Tay phải co khuỷu tay, nâng cái Tháp Phật.

Làm Tượng này xong. Ở phương Bắc của Đạo Tràng hướng về bên phía Nam, ứng dụng. Tác hành an trí xong.

Chú Sư ngồi ở phương Nam hướng mặt về phương Bắc dùng tay làm pháp Ấn lúc trước, tụng Chú, mỗi mỗi hô gọi, an trí ngồi xong, đốt An Tất Hương, mọi loại cúng dường với tụng Tâm Chú Chú là: Úm tiệm bà la tạ liễn đà la dạ sa ha.

Pháp Ấn Chú này tên là Tứ Thiên Vương Thông Tâm Ấn Chú. Nếu làm thân Tượng, ở trong Đạo Tràng ngày ngày làm Ấn, đối ở trước Tượng, tụng nhóm Chú bên trên với tụng Tâm Chú thì được bốn Thiên Vương vui vẻ, ban ân. Nếu hay tụng Chú mãn mười vạn biến thì chữa bệnh rất hiệu nghiệm, phần lớn được tiền tài.

Nhật Thiên Pháp Ấn Chú thứ mười một:

Trước tiên, để hai tay dựa lưng nhau, dựng lưng nhóm ngón tay: Giữa, vô danh, út dựa bằng nhau. Dựng nghiêng hai ngón trỏ trụ đầu nhau, co cạnh hai ngón cái vịn vạch lóng gốc cạnh ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại.

Chú là: Úm sa ha tát la la thấp mê sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu có thọ trì Ấn này, tụng Chú, ngày ngày cúng dường Nhật Thiên Tử Āditya devaputra thì tất cả không có bệnh. Nếu ở trước mặt Phật làm cúng dường thì Chư Phật vui vẻ.

Nhật Thiên Tử Cúng Dường Ấn thứ mười hai. Chẳng thấy Chú riêng.

Tay phải: Co ngón vô danh, ngón út ngay trong lòng bàn tay, đem ngón cái đè ép lóng trên của ngón vô danh, ngón út. Dựng thẳng ngón giữa. Hơi co ngón trỏ để cạnh ngón trỏ dính lóng trên của ngón giữa. Tay trái liền đem bốn ngón tay nắm quyền, đem ngón cái nắm dính lưng cổ tay phải, duỗi nghiêng ngón út rồi co lại. Dựng thẳng khuỷu tay phải hướng lên trên.

Nguyệt Thiên Pháp Ấn Chú thứ mười ba: Cài ngược hai ngón út, hai ngón vô danh ngay trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái. Dựng thẳng ngón giữa lên trên, dính đầu nhau. Đem hai ngón trỏ đều đè trên lóng thứ ba của ngón giữa. Đem hai ngón cái đều vịn hai đầu ngón vô danh trong lòng bàn tay.

Đưa ngón cái qua lại Chú là: Úm trụ trụ bát để sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu khi làm Đại Đạo Tràng Đô Đàn thời nên làm Ấn này, tụng Chú cúng dường thì tất cả vui vẻ.

Tinh Tú Thiên Pháp Ấn Chú thứ mười bốn: Trước tiên ngửa tay phải, úp ngược tay trái cài chéo nhau, đem đầu ngón vô danh phải đè lóng gốc bên trong ngón giữa trái, đem ngón giữa phải đè lóng gốc bên trong ngón vô danh trái.

Lại đem ngón vô danh trái quấn ngược đè lóng gốc bên trong ngón giữa phải. Đem đầu ngón giữa trái vịn lóng gốc bên trong ngón vô danh phải, quấn xoắn như sợi dây. Dựng thẳng hai ngón út trụ đầu nhau, dựng nghiêng hai ngón trỏ trụ đầu nhau. Đem hai ngón cái hướng về thân, trụ đầu nhau.

Mở ngón cái đưa qua lại Chú là: Úm na sát đá la đề bà đá duệ sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu có Chú Sư ngày ngày liên tục đối ở trước mặt Phật, mỗi lần làm Ấn này, tụng Chú cúng dường thì thân thường không có bệnh.

Khi làm Đô Đàn thời cũng thông vào số: Tụng, hô gọi, cúng dường thì tất cả vui vẻ.

Địa Thiên Pháp Ấn Chú thứ mười năm: Hợp cổ tay. Cài ngược hai ngón trỏ với hai ngón út ngay trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái. Dựng thẳng hai ngón giữa với hai ngón vô danh trụ đầu nhau. Kèm dựng hai ngón cái đè cạnh hai ngón trỏ. Đưa ngón cái qua lại.

Chú là: Úm bà tôn đà lý đà na đà, nhược bát la bà, la đát nễ sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu có nhóm người ngày ngày liên tục thọ trì Ấn này, chí Tâm tụng Chú, cúng dường Địa Thiên. Pṛthivī deva thì được tất cả châu báu. Nếu khi làm Đô Đàn thời cũng thông với nhất vị một địa vị, hô gọi rồi cúng dường thì tất cả vui vẻ.

Hỏa Thiên Pháp Ấn Chú thứ mười sáu: Tay phải dựng thẳng ba ngón phía sau. Ngón giữa, ngón vô danh, ngón út, hơi co ngón trỏ, co ngón cái ngay trong lòng bàn tay, đưa ngón cái qua lại.

Chú là: Úm a kỳ na duệ ha tệ, ca tệ bà ha na dạ địa tệ, địa tệ địa bạt dạ sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Chú Sư nếu khi làm tất cả Đàn Pháp cúng dường thời trước tiên, hô gọi Hỏa Thiên. Agni deva ngồi ở tòa hoa trong lò lửa xong, đốt nhóm bơ, mật, mọi loại cúng dường xong, liền dời hỏa thiên đến bên lò lửa, an trí ngồi xong.

Sau đó theo thứ tự thỉnh tất cả Phật với thỉnh Bát Nhã, mỗi một Bồ Tát, tất cả Kim Cang kèm thỉnh Chư Thiên… an trí nơi tòa hoa trong lòng lửa xong, đốt nhóm bơ, mật cũng với ngũ cốc.

Mọi loại hoa hương kèm các nhóm vật bánh, quả, nước hương… để làm cúng dường. Mỗi mỗi theo thứ tự, lại làm Bản Ấn, tụng Bản Chú ấy rồi đưa tiễn về Bản Vị. Vị trí cũ. Cúng dường khắp xong, làm Phát Khiển Ấn rồi giải tán.

Hỏa Thiên Trợ Chú Sư Thiên Nghiệm Ấn thứ mười bảy: Tay phải co khuỷu cánh tay, hướng lên trên dựng thẳng. Co ngón trỏ, ngón giữa với ngón vô danh hướng đầu ngón về lòng bàn tay, đừng để đầu ngón dính vào lòng bàn tay. Dựng thẳng ngón cái vịn cạnh ngón trỏ.

Diêm La Vương Pháp Thân Ấn Chú thứ mười tám: Tay phải co ba ngón tay, lại hơi ló ngón trỏ ra khoảng ba phân 1cm. Đem ngón cái phụ dính vạch lóng dưới của ngón trỏ, đưa ngón trỏ qua lại.

Chú là: Úm Diêm Ma la xà ô yết la, tỳ lê gia a yết xa sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu khi làm Đại Đàn cúng dường tất cá Chư Phật… thời liền làm Ấn này, tụng Chú bảy biến thì Diêm La Vương Yama rāja liền đến nhận cúng, tâm rất vui vẻ.

Nhất Thiết Long Vương Pháp Thân Ấn Chú thứ mười chín. Cũng gọi là Ưu Bà Nan Đà Long Vương Ấn.

Để đầu khuỷu tay phải ngay bên trong khủy tay trái. Lại tay phải hơi co bốn ngón phía sau, đem ngón cái nắm ngón trỏ rồi hơi co lại. Tay trái co ngược hướng lên trên tay phải. Tay phải cũng như vậy. Hai tay hướng vào nhau có dạng như miệng con rắn. Hai tay mở hợp bốn ngón tay, đưa qua lại. Chú dùng Chú phía sau.

Lại có Long Vương Pháp Thân Ấn thứ hai mươi: Hai cổ cánh tay dựa theo lúc trước chẳng sửa. Chỉ cài ngược hai ngón út, hai ngón vô danh trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái. Dựng thẳng hai ngón giữa trụ đầu nhau. Đem hai ngón trỏ trụ tại lóng trên ở lưng ngón giữa. Hơi co hai ngón cái đều trụ ở lóng giữa bên trong hai ngón trỏ. Đưa ngón trỏ qua lại. Đồng tụng Chú phía sau.

Chú là: Úm bồ kì, bồ kì bồ kê, bồ già bạt để ô hồng, ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu khi làm Đại Hội Cúng Dường Đàn thời liền làm Ấn này, tụng Chú, hô gọi vào trong Đô Đàn Hội đồng cúng dường, liền được tất cả thảy đều vui vẻ.

Nếu muốn cầu mưa, nên làm đủ Đàn cúng dường, làm pháp… y theo cầu thỉnh liện được tuôn mưa đầy đủ.

Ngũ Phương Long Vương Hoa Tòa Ấn thứ hai mươi mốt. Chẳng thấy Chú riêng.

Hai tay: Tám ngón tựa như co mà chẳng co đều dựng hướng lên trên, hai đầu ngón út cách nhau hai phân 2/3cm. Hai ngón vô danh với hai ngón giữa đều cách đầu nhau khoảng hai thốn 2/3dm. Hai đầu ngón trỏ cách nhau bốn thốn 4/3dm. Kèm dựng hai ngón cái dính nhau.

Ngũ Phương Long Vương Nha Ấn thứ hai mươi hai. Chẳng thấy Chú riêng.

Tay phải co khủy cánh tay dựng thẳng hướng lên trên, co ngón vô danh, ngón út tại lòng bàn tay, dựng thẳng ngón giữa, lại co ngón trỏ để cạnh ngón trỏ dính với lóng giữa của ngón giữa, đem ngón cái vịn cạnh đầu ngón trỏ.

Pháp Đàn cầu mưa. Nếu muốn cầu mưa. Có thể ở trong nước nhìn khắp nơi tìm đất thù thắng với ao, suối tốt… có rồng ở. Nơi gần sát cái ao ấy, sửa trị cho bằng phẳng sạch sẽ, phương mặt đều chọn đúng năm mươi bước, mặc quần áo sạch, dựng lập Đạo Tràng xong.

Ngay chính giữa làm cái Đàn mười hai khuỷu tay, tám khuỷu tay cũng được. Bốn phương của Đàn ấy đều kéo màn vải đen vây chung quanh, cũng kéo che phương bên trên. Ở bên trong cái màn ấy treo nhiều phan màu đen, lại dùng phấn năm màu nhiễu quanh bốn ven bờ. Ven bờ giới hạn của Đàn ấy chỉ làm một lớp, rồi mở bốn cửa.

Cửa Đông của Đàn, dùng bùn làm một thân Long Vương, thân dài ba khuỷu tay, một thân ba cái đầu. Rồng ấy đứng trên đất, một khuỷu tay của thân Rồng ở bên trong Đàn, hai khuỷu tay ở bên ngoài.

Tiếp theo ở cửa Nam, lại dùng bùn làm một thân Long Vương, thân dài năm khuỷu tay, một thân năm cái đầu. Rồng ấy đứng trên đất, một khuỷu tay của thân Rồng ở bên trong Đàn, bốn khuỷu tay ở bên ngoài.

Tiếp theo ở cửa Tây, lại dùng bùn làm một thân Long Vương, thân dài bảy khuỷu tay, một thân bảy cái đầu. Rồng ấy đứng trên đất, một khuỷu tay của thân Rồng ở bên trong Đàn, sáu khuỷu tay ở bên ngoài.

Tiếp theo ở cửa Bắc, lại dùng bùn làm một thân Long Vương, thân dài chín khuỷu tay, một thân chín cái đầu. Rồng ấy đứng trên đất, một khuỷu tay ở bên trong Đàn, tám khuỷu tay ở bên ngoài.

Tiếp theochính giữa Đàn, lại dùng bùn làm một thân Long Vương, thân dài tám khuỷu tay, một thân một cái đầu. Đầu Rồng hướng về phương Đông.

Trước mặt năm Long Vương này, mỗi một vị Rồng đều để riêng một cái bình sành lớn, trên cái bình đều dùng phấn trắng xoa bôi. Trên thân cái bình ấy dùng Ngưu Hoàng thật đều vẽ bốn bức tượng Tu Bồ Đề. Subhūti ngồi Kiết Già. Trong mỗi một miệng bình đều cắm hoa tạp. Nếu không có hoa tươi thì lấy hoa lụa màu cắm vào. Trên cổ bình ấy dùng vòng hoa quấn quanh.

bốn góc của Đàn ấy đều an riêng một cái lọ nước bằng đồng đỏ. Cái lọ ấy đều có thể nhận được một đấu, chứa đầy nước sạch, chẳng cần tô vẽ. Miệng lọ ấy cắm cành liễu, bách hoặc cành Trúc cũng được… các cành đều kèm theo lá. Lại dùng vải lụa sống năm màu cột buộc trên các cành ấy thành một bó. Mỗi tấm lụa màu ấy đều dài năm xích 5/3m.

Bên trong, bên ngoài Đàn ấy, dùng bùn làm nhiều hình con Rồng nhỏ để làm quyến thuộc.

Trước mặt năm Long Vương đều dùng mọi loại bánh, quả, thức ăn uống chứa đầy trong một cái mâm điêu khắc tinh xảo để cúng dường. Thức ăn ấy, mỗi ngày đều thay đổi thứ mới.

Làm Đàn Pháp này xong, khi cầu mưa thời mỗi ngày chưng nấu một thạch một trăm hai mươi cân ngũ cốc rải tán bố thí cho nhóm Quỷ Thần trên mặt đất ăn. Khi làm pháp thời cùng với tám đệ tử làm bạn đều từng đi vào Đô Đạo Tràng thì mới cho vào sai khiến. Ngoài ra, người khác chẳng được cho vào.

Nhóm người làm pháp ấy chỉ được ăn gạo tẻ khô, cơm gạo tẻ, cháo sữa, bánh, quả trái… chẳng được ăn rau. Dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, vào Đàn làm pháp. Mỗi lần đi nhà xí thời một lần tắm gội, mặc áo sạch mới thì mới được lên Đàn.

Khiến một Chú Sư ngồi ở bên trong Đàn, đốt nhiều hương tạp, chí tâm tụng Chú, chỉ Hộ Thân làm, đừng làm kết giới. Tám người như vậy trợ nhau vào Đàn tụng Chú, chẳng được để Đàn ấy trống rỗng, ngày đêm tụng Chú, tiếng Chú chẳng dứt, mỗi khi đến đêm thì thắp một trăm hai mươi chén đèn.

Nếu khi muốn ra vào đi lại thời đều theo cửa Tây mà ra vào đi lại, chẳng được ra vào ba cửa còn lại.

Dùng màn, trướng vây quanh bốn mặt bên ngoài, đều mở riêng một cửa. Mỗi cửa đều treo phan màu, lụa đủ màu. Mỗi cửa giăng màn, bày nhiều đệm bện lông, cung cấp dầu thơm, thức ăn uống, giường nằm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần